DI TÍCH
LỊCH SỬ VĂN HÓA
Bình Định - Bảo tàng Quang Trung
|
Nguyễn Huệ là một anh hùng dân tộc có công
dẹp loạn trong nước và đánh đuổi quân xâm lược từ ngoài vào. Năm 1788, ông
thống lĩnh đại quân từ Phú Xuân (Huế) hành quân thần tốc 35 ngày đêm ra Bắc
đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược, giải phóng Thăng Long (nay là Hà Nội). Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế hiệu là Quang Trung.
Nhà bảo tàng Quang Trung và tượng đài người
anh hùng được dựng trên khu đất nơi sinh ra Nguyễn Huệ ở làng Kiên Mỹ, xã Bình
Thạnh, huyện Tây Sơn, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 45km. Đến bảo tàng Quang
Trung, du khách được xem nhạc võ Tây Sơn. Một môn võ truyền thống của Bình
Định. Đặc biệt cô gái biểu diễn trống trận là cháu 9 đời của Quang Trung -
Nguyễn Huệ.
Đà Nẵng - Bảo tàng Chàm
|
Nằm
ở điểm tiếp giáp của hai con đường Trưng Nữ Vương và Bạch Đằng, thành phố Đà
Nẵng, Bảo tàng Chàm được xây dựng từ năm 1915 dưới sự bảo trợ của Viện Nghiên
cứu Viễn đông Pháp tại Việt Nam.
Năm 1936, Bảo tàng được mở rộng thêm và khánh thành
chính thức vào năm 1939. Đây là bộ
sưu tập cuối cùng về nghệ thuật điêu khắc Chàm trên thế giới được đặt tại Đà
Nẵng, trung tâm cũ của Vương quốc Chămpa, với nhiều địa danh nổi tiếng
Bảo
tàng điêu khắc Chàm xây phỏng theo mô típ của các kiến
trúc Chămpa, khối nhà trưng bày màu trắng có đường nét trang trí tuy nhỏ nhưng
đơn giản và duyên dáng.
Hiện
nay Bảo tàng trưng bày khoảng 300 tác phẩm điêu khắc nguyên bản bằng chất liệu sa thạch, số ít là đất nung được sưu tập từ các đền, tháp
Chàm nằm rải rác ở miền Trung từ Quảng Bình đến Bình Thuận. aĐấy
là những đài thờ và những phù điêu trang trí trên các kiến trúc. Chúng được trưng bày trong 10 phòng mang tên các địa phương có hiện
vật được phát hiện. Kiến trúc có niên đại từ thế kỷ V đến thế kỷ XV theo
chế độ Mẫu hệ .
Sau khi thăm nhà trưng bày, du khách có thể dạo xem
bảo tàng ngoài trời.
Đà Nẵng - Bảo tàng điêu khắc Chămpa
Vị trí: Bảo tàng nằm ở
điểm tiếp giáp của hai con đường Trưng Nữ Vương và Bạch Ðằng, thành phố Ðà Nẵng.
Đặc điểm:
Ðây là bộ sưu tập cuối cùng về nghệ thuật điêu khắc Chămpa trên thế giới được đặt
tại Ðà Nẵng, trung tâm cũ của vương quốc Chămpa.
Bảo
tàng điêu khắc Chămpa được xây dựng từ năm 1915 dưới sự bảo trợ của Viện nghiên
cứu Viễn Ðông Pháp tại Việt Nam. Năm
1936, Bảo tàng được mở rộng thêm và chính thức khánh thành vào năm 1939.
Giờ mở cửa:
Từ 7:00 đến 17:00
Bảo
tàng điêu khắc Chămpa xây phỏng theo mô típ của các kiến trúc Chămpa, khối nhà
trưng bày màu trắng có đường nét trang trí tuy nhỏ nhưng đơn giản và duyên
dáng.Hiện nay bảo tàng trưng bày khoảng 300 tác phẩm điêu khắc nguyên bản bằng
chất liệu sa thạch, số ít là đất nung được sưu tập từ các đền, tháp Chàm nằm rải
rác ở miền Trung từ Quảng Bình đến Bình Thuận. Ðấy là những
đài thờ và các phù điêu trang trí trên các kiến trúc. Chúng
được trưng bày trong 10 phòng mang tên các địa phương có hiện vật được phát hiện.
Kiến trúc có niên đại từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 15 theo
chế độ mẫu hệ "Mother of the country".
Đà Nẵng - Bảo tàng Khu 5
Bảo tàng Khu 5
Vị trí: Số 01 đường
Duy Tân,thành phố Đà Nẵng
Đặc điểm:
Bảo
tàng Khu 5 được khánh thành đưa vào sử dụng ngày 7/1/1982 với diện tích trưng
bày 8.819m². Năm 1995, Bảo tàng
Khu 5 được Nhà nước xếp hạng là Bảo tàng Quốc gia hạng hai. Bảo tàng gồm
2 phần:
Giờ mở cửa:
Mở
cửa các ngày trong tuần:
Sáng:
7:30 đến 11:00
Chiều:
13:30 đến 16:00
Khu trưng
bày ngoài trời rộng 5.451m²
Có
các vũ khí thể khối lớn như: máy bay, xe tăng, xe bọc thép, các pháo từ 75mm đến
175mm..., các loại vũ khí của quân đội Pháp, Mỹ bị bộ đội Khu 5 thu được và sử
dụng đánh địch trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
12 phòng
trưng bày bên trong rộng 3.368m²
Trưng
bày hàng ngàn hình ảnh, hiện vật về sự ra đời, chiến đấu và chiến thắng của các
lực lượng vũ trang Khu 5 trong 56 năm qua (1945-2001). Đặc biệt có nhiều hình ảnh,
hiện vật quý hiếm được trưng bày thể hiện sự sáng tạo, độc đáo, hiệu quả của sức
mạnh chiến tranh nhân dân địa phương Khu 5 trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Đà Nẵng - Bảo tàng Hồ Chí Minh
Đà Nẵng - Bảo tàng Hồ Chí Minh
Vị trí: Số 01 đường
Duy Tân, thành phố Đà Nẵng.
Đặc điểm:
Giờ mở cửa:
Mở
cửa các ngày trong tuần:
Sáng:
7:30 đến 11:00
Chiều:
13:30 đến 16:00
Bảo tàng
Hồ Chí Minh gồm 2 phần:
Khu mô
hình nhà sàn Hồ Chí Minh
Năm
1975, Miền Nam hoàn toàn giải phóng. Ngày 12/9/1976 thể
theo nguyện vọng và tình cảm của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ Khu 5 đối
với Bác Hồ kính yêu, mô hình nhà sàn được xây dựng theo đúng tỉ lệ 1/1 (giống
như nhà sàn Hồ Chí Minh ở Hà Nội) tại trung tâm thành phố Đà Nẵng. Bên ngoài là
vườn cây, ao cá... tạo nên một khuôn viên thoáng mát, đẹp, thu hút nhiều du
khách khi đến thăm thành phố.
Bảo tàng Hồ
Chí Minh
Có
4 phòng trưng bày, giới thiệu cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của anh hùng giải
phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Hồ Chí Minh.
Đặc
biệt Bảo tàng có trưng bày nhiều hiện vật quý hiếm thể hiện tấm lòng son sắt,
thuỷ chung của đồng bào, cán bộ và chiến sĩ Khu 5 đối với Bác Hồ và tình cảm
sâu nặng của Bác Hồ đối với đồng bào, chiến sĩ Khu 5.
Đăk Lăk - Bảo tàng dân tộc Đăk Lăk
Vị trí: Thuộc thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Đặc điểm:
Bảo tàng dân tộc Đắk Lắk trưng bày các hình ảnh và hiện vật lịch sử, văn hóa đời
sống của người dân tỉnh Đắk Lắk.
Bảo
tàng dân tộc Đắk Lắk gồm hai tầng:
Tầng
1: Trưng bày những hiện vật, hình ảnh giới thiệu về đặc điểm tự nhiên của Đắk Lắk,
về văn hóa hai dân tộc thiểu số: Ê Đê và M'Nông.
Các
mô hình nhà sàn, trang phục, dụng cụ sản xuất, tượng nhà mồ, các bộ sưu tập ché
rượu, gùi, trái bầu...
Tầng
2: Trưng bày những hình ảnh, hiện vật về công cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ của đồng bào Đắk Lắk. Ngoài ra bảo tàng cũng trưng bày những hình ảnh về
công cuộc sản xuất kinh tế của người dân Đắk Lắk sau ngày giải phóng: sản xuất
nông công nghiệp, trồng cao su, cà phê, chế biến mủ cao su, làm thủy điện...
các hoạt động y tế, du lịch...
Điện Biên - Bảo tàng chiến thắng
Điện Biên Phủ
Điện Biên - Bảo tàng chiến thắng
Điện Biên Phủ
Vị trí: Bảo tàng Điện
Biên Phủ nằm đối diện với nghĩa trang liệt sĩ trên đồi A1, trung tâm thành phố
Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
Đặc điểm:
Bảo tàng Điện Biên Phủ được xây dựng vào năm 1984 nhân dịp kỷ niệm 30 năm chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Vào
cuối năm 2003, bảo tàng Điện Biên Phủ đã tiến hành nâng cấp và chỉnh lý lại khu
trưng bầy. Đến nay bảo tàng có 5 khu trưng bầy với
274 hiện vật và 122 bức tranh theo từng chủ đề sau:
- Vị trí chiến lược của Điện Biên Phủ
-
Tập đoàn cứ điểm của địch tại Điện Biên Phủ
-
Đảng chuẩn bị đường lối chỉ đạo cho chiến dịch Điện Biên Phủ
-
Ảnh hưởng của chiến thắng Điện Biên Phủ - Điện Biên Phủ ngày nay
Hà Nội - Bảo tàng Cách Mạng
Hà Nội - Bảo tàng Cách mạng
Vị trí: Số 25 Tông Đản,
quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Ðặc điểm:
Giới thiệu về cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam chống thực dân
Pháp, Phát xít Nhật, Đế quốc Mỹ (từ giữa thế kỷ 19 đến 1975). Giới thiệu công cuộc xây dựng và bảo vệ nước cộng hoà XHCN Việt
Nam.
Bảo
tàng Cách mạng được thành lập tháng 1/1959 có 29 phòng trưng bày hơn 4 vạn
hiện vật. Tại đây, giới thiệu tổng
hợp về đất nước và con người Việt Nam từ giữa thế kỷ 19 tới nay. Hệ thống
trưng bày chia làm 3 phần chính:
Giờ mở cửa:
Vào
các ngày trong tuần và ngày lễ;
trừ
thứ hai.
Sáng:
8:00 - 11:45
Chiều:
13:30 - 16:15
-
Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam, từ năm 1858 đến 1945 (phòng
1 đến 9).
-
Ba mươi năm kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất đất
nước từ năm 1945 đến 1975 (từ phòng 10 đến 24).
-
Việt Nam xây dựng kinh tế từ 1976 đến nay. Cũng tại đây được trưng bày các bộ sưu tập về Kinh tế Việt Nam sau
năm 1975 (phòng số 26 và 27); Bộ sưu tầm tặng phẩm của nhân dân Việt Nam và
nhân dân thế giới tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam (phòng số
28 và 29).
Đặc
biệt, Bảo tàng Cách mạng còn có một kho lưu trữ hàng trăm ngàn hiện vật, tư liệu
quý khác về Cách mạng Việt Nam từ năm 1858 đến nay mà chưa có điều kiện trưng
bày.
Hà Nội - Bảo tàng Chiến thắng B52
Hà Nội - Bảo tàng Chiến thắng B52
22/05/2007, 14h29
Vị trí: Số 157 phố Đội
Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội.
Ðặc điểm:
-
Trưng bày các vũ khí, khí tài lập công của quân và dân Thủ đô trong trận
"Điện Biên Phủ trên không" năm 1972, xác máy bay B52.
-
Lưu giữ hình ảnh hiện vật về tinh thần quyết chiến, quyết thắng, mưu trí, sáng
tạo của quân và dân Thủ đô.
Ngày
22/12/1997, tại 157 phố Đội Cấn, Hà Nội, bảo tàng Chiến thắng B52 chính thức
khánh thành. Từ đó đến nay, mỗi
năm hàng chục vạn lượt khách đã tới tham quan. Bạn bè bốn phương đã ghi
nhận đây là một trong những bảo tàng độc đáo nhất thế giới...
Không
ai nghi ngờ về sự độc đáo của bảo tàng “Chiến thắng B52", bởi lẽ trên thế
giới không hiếm các hình thức bảo tàng, nhưng chỉ ở Việt Nam mới có dạng bảo
tàng này. Cho dù bây giờ sự tiến bộ của khoa học
đã tạo nên nhiều loại phương tiện, khí tài quân sự hiện đại, nhưng vào thời điểm
năm 1972 máy bay B52 chính là con chủ bài của không quân chiến lược Mỹ và được
chính quyền Mỹ coi là sự bất khả chiến bại khi gây chiến với các nước. Lúc đó,
Mỹ muốn miền Bắc Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá, ngăn sự chi viện của miền Bắc
với miền Nam, đã tiến hành cuộc đánh phá ồ ạt bằng không quân chiến lược vào Hà
Nội và một số nơi ở miền Bắc. Dư luận quốc tế biết Hà Nội trở thành "túi
bom" hứng chịu các đợt rải thảm bằng B52 đã không khỏi lo ngại kết cục bi
thảm của thành phố nhỏ bé, nên hết sức kinh ngạc khi biết nhiều "pháo đài
bay" đã bị bắn rơi tại chỗ.
Trên
diện tích 1.200m² trưng bày trong nhà, tiếp theo phần
giới thiệu quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng vũ trang
Thủ đô qua các thời kỳ là nội dung trọng tâm: trận "Điện Biên Phủ trên
không" qua 12 ngày đêm tháng 12/1972. Qua những tài liệu, hình ảnh, hiện vật,
du khách sẽ thấy rõ âm mưu thâm độc và dã man của đế quốc Mỹ đối với nhân dân
Việt Nam. Những con số thống kê tưởng chừng rất khô khan, nhưng đã nói lên sự
ác liệt của sự kiện: chỉ tính riêng trong 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972, Mỹ đã
sử dụng 726 lần B52, 3.120 lần máy bay chiến thuật và trút hàng chục nghìn tấn
bom đạn xuống miền Bắc. Trong đó, tại Hà Nội, Mỹ đã sử dụng 444 lần B52 (chiếm
61% tổng số lần B52 tham gia cuộc tập kích), hơn 1.000 lần máy bay chiến thuật,
ném hơn 1 vạn tấn bom đạn, giết hại 2.380 người và làm bị thương 1.355 người. Vẫn
còn đó hình ảnh cảnh hoang tàn ở Hà Nội sau các đợt oanh tạc khủng khiếp tại
các địa danh: Khâm Thiên, Bệnh viện Bạch Mai, ga Hà Nội... Và vẫn còn đó hình ảnh
về những chia sẻ cộng đồng với những mất mát đau thương cùng những hình ảnh, hiện
vật sinh động về cuộc chiến chấn động địa cầu của quân dân Thủ đô đánh trả quyết
liệt các cuộc không kích tàn bạo của Mỹ, đập tan huyền thoại "ngoáo ộp"
- bắn rơi 358 máy bay (trong đó có 25 chiếc B52).
Tại
bảo tàng này có một phòng rất thu hút khách tham quan, đó là sa bàn tổng hợp diễn
biến trận "Điện Biên Phủ trên không", diện tích 200m², có không gian
ba chiều (thể hiện địa hình khu vực gồm khu dân cư, các trận địa phòng không,
điểm B52 rơi...) và khi phòng này hoạt động, hệ thống ánh sáng, âm thanh, tạo
khói và phim video chiếu màn ảnh lớn đã tái tạo rất ấn tượng những khoảnh
khắc lịch sử huy hoàng của Hà Nội. Khu trưng bày ngoài trời của bảo tàng
có diện tích 4.000m², trong đó trưng bày các vũ khí, khí tài mà quân, dân
thủ đô đã lập công và một số mảnh xác máy bay Mỹ, một xác máy bay B52 có
thân dài 48,07m, sải cánh 56,42m - bằng chứng thất bại thảm hại của đế quốc Mỹ
trong cuộc đánh phá miền Bắc Việt Nam và thủ đô Hà Nội.
Bảo tàng
còn là nơi sinh hoạt văn hoá của nhiều đối tượng. Bảo tàng đã thu thập hồ sơ các di tích chiến thắng B52
tiêu biểu khác ở Hà Nội, như: di tích ghi dấu ấn của đế quốc Mỹ ở Khâm Thiên,
di tích điểm B52 rơi đầu tiên ở Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn; di tích Sở chỉ huy phòng
không nhân dân; di tích trận địa phòng không ở phường Bạch Đằng, quận Hai Bà
Trưng; các trận địa tên lửa lập công trong 12 ngày đêm hào hùng vào năm 1972...
Bảo tàng Chiến thắng B52 luôn xứng đáng là một trong những
địa chỉ lịch sử văn hoá tiêu biểu ở thủ đô.
Hà Nội - Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam
Hà Nội - Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam
Vị trí: Ðường Nguyễn
Văn Huyên, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Ðặc điểm:
Lưu giữ các hiện vật, tài liệu phản ánh mọi mặt đời sống, sinh hoạt, phong tục
tập quán của 54 dân tộc trên khắp cả nước.
Nằm
trên một khu đất rộng 3ha, bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được khai trương vào
cuối năm 1997. Ngay từ khi ra đời, nơi đây đã thực sự thu hút sự quan tâm của nhiều khách du lịch và các nhà
nghiên cứu văn hoá, dân tộc học trong nước và quốc tế.
Bảo
tàng Dân tộc học lưu giữ 10.000 hiện vật, 15.000 ảnh đen trắng, hàng trăm băng
video, băng cát-sét phản ánh mọi mặt đời sống, sinh hoạt, phong tục, tập quán của
54 dân tộc trên khắp đất nước Việt Nam.
Hiện
vật trưng bày được sắp xếp, bố trí một cách khoa học, dễ hiểu, dễ cảm thụ.
Khu
trưng bày thường xuyên trong nhà có diện tích 2.500m² (bao gồm 2 tầng) được
chia làm 9 phần:
-
Giới thiệu chung
-
Giới thiệu dân tộc Việt (Kinh)
-
Các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày, Thái và Ka dai
-
Các dân tộc nhóm ngôn ngữ H' Mông, Dao, Tạng, Sán Dìu, Ngái.
Giờ mở cửa:
8:00
- 17:00 vào các ngày trong tuần; trừ thứ 2 và các ngày lễ, Tết trong năm.
Giá vé:
-
Vé thường: 20.000 đồng/lượt.
-
Vé giảm giá:
5.000
đồng/lượt dành cho sinh viên các trường cao đẳng và đại học.
3.000
đồng/lượt dành cho học sinh tiểu học và phổ thông trung học.
-
Vé miễn phí: Trẻ em dưới 6 tuổi và người dân tộc thiểu số Việt Nam.
-
Các dân tộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.
-
Các dân tộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo.
-
Các dân tộc Chăm, Hoa, Khmer.
-
Giao lưu, hội nhập giữa các dân tộc.
Khu
trưng bày ngoài trời giới thiệu những phong cách kiến trúc đặc trưng nhất của
các dân tộc Việt Nam. Hiện tại đã có trưng bày về ngôi
nhà dài Ê-Đê, nhà sàn Tày, ngôi nhà nửa sàn và nửa trệt của người Dao, nhà mái
lợp bằng gỗ pơ-mu của người H'Mông, ngôi nhà Việt với mái lợp ngói, ngôi nhà mồ
Gia-Rai, nhà Rông của người Ba-Na, ngôi nhà Chăm và ngôi nhà đất trình tường của
người Hà Nhì.
Trong
tương lai, Bảo tàng dự định trưng bày ngôi nhà mồ của dân tộc Cơ-Tu và khuôn
viên hoàn thiện của ngôi nhà Việt. Một
số loại cây thuộc địa phương của mỗi ngôi nhà cũng được mang đến và trồng tại
đây.
Bảo
tàng đang dần hoàn thiện hẳn không gian trưng bày ngoài trời.
Bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam là một địa chỉ hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Cinet
Hà Nội - Bảo tàng Hà Nội
Ha Nội - Bảo tàng Hà Nội
Vị trí: Số 5 phố
Hàm Long, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Ðặc điểm:
Trưng bày giới thiệu về Hà Nội từ khi dựng nước đến nay.
Bảo
tàng Hà Nội được thành lập từ năm 1982 theo quyết định
của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Căn cứ vào tính chất của bảo tàng và đặc
điểm của Thủ đô, nội dung nghiên cứu trưng bày của bảo tàng Hà Nội được chia
làm 3 phần như sau:
-
Lịch sử thiên nhiên Hà Nội.
-
Lịch sử Hà Nội từ khi dựng nước đến trước Cách mạng tháng Tám.
-
Lịch sử Hà Nội từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay.
Hiện
nay, trong kho bảo tàng Hà Nội đang lưu trữ khoảng 16.000 hiện vật, trong đó
riêng kho cổ vật quý hiếm đã chiếm tới hơn 7.000 hiện vật với đủ loại hình và
chất liệu khác nhau. Nếu chỉ tính riêng các sưu tập hiện vật văn hoá khảo cổ học
đã chiếm tới hơn 2.000 hiện vật là những sưu tập hiện vật bảo tàng rất có giá
trị về khoa học và lịch sử. Hà Nội là một trung tâm quần cư của
người Việt cổ. Điều này được thể hiện ở kết quả nghiên cứu các giai đoạn
văn hoá khảo cổ được diễn biến và phát triển liên tục qua các cuộc khai quật khảo
cổ ở các di chỉ như Đồng Vông, Xuân Kiều, Bãi Mèn, Tiên Hội, Đình Chàng, Đường
Mây... Khu di tích Cổ Loa là ruột kho lưu trữ lớn. Các
hiện vật bảo tàng ở đây có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử Việt
Nam, văn minh Đông Sơn trong buổi đầu dựng nước.
Trong
quá trình nghiên cứu và chỉnh lý hiện vật, bảo tàng Hà Nội đã hình thành các
sưu tập như: Sưu tập đồ đá, sưu tập đồ đồng, sưu tập gốm sứ các thời Lý, Trần,
Lê, Nguyễn, sưu tập gốm sứ của Trung Quốc, Nhật Bản... Các bộ
sưu tập này rất phong phú và đa dạng, có giá trị lớn về khoa học và lịch sử.
Hà Nội - Bảo tàng Hồ Chí Minh
Hà Nội - Bảo tàng Hồ Chí Minh
24/05/2007, 08h13
Vị trí: Số 3 Ngọc Hà,
quận Ba Đình, Hà Nội.
Ðặc điểm:
Lưu giữ hiện vật, hình ảnh, phản ánh cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chủ tịch.
Bảo
tàng Hồ Chí Minh nằm ở khu vực quảng trường Ba Ðình, bên cạnh lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bảo tàng khánh
thành ngày 19/5/1990 nhân kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Giờ mở cửa:
Mở
cửa các ngày trong tuần:
Sáng:
8:00 đến 11:00
Chiều:
13:30 đến 16:30
Ðây
là tòa nhà cao 20,5m gồm 4 tầng với tổng diện tích sử dụng là 10.000m².
Công trình được thiết kế như một bông hoa sen nở, tượng trưng cho phẩm chất
thanh cao, trong sáng của Hồ Chủ tịch.
Phần
trưng bày của Bảo tàng rộng gần 4.000m2 giới thiệu hơn 117.274 hiện vật
gốc, hình ảnh phản ánh cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, gắn liền
với các sự kiện lịch sử quan trọng của Việt Nam và thế giới từ cuối thế kỷ thứ
19 đến nay. Tại bảo tàng còn có khu triển lãm, các kho lưu trữ, thư viện chuyên đề, hội trường lớn, các hội trường vừa và nhỏ
phục vụ tham quan, nghiên cứu, sinh hoạt khoa học và văn hóa.
Từ
ngày mở cửa, bảo tàng đã đón hàng triệu lượt khách trong nước và quốc tế đến
tham quan.
Cinet
Hà Nội - Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam
Hà Nội - Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam
Vị trí:
Số 36 Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Ðặc điểm: Nơi
trưng bày, gìn giữ bảo quản các tài liệu, hiện vật giới thiệu vai trò, thành tựu
của phụ nữ Việt Nam trong quá trình phát triển của dân tộc.
-
Là nơi giao lưu văn hoá giữa phụ nữ Việt Nam và phụ nữ thế giới.
Bảo
tàng Phụ nữ Việt Nam khánh thành ngày 20/10/1995 nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành
lập Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Bảo
tàng Phụ nữ Việt Nam không chỉ là nơi nghiên cứu, lưu giữ bảo quản, trưng bày
những di sản quí giá của Phụ nữ Việt Nam mà còn là trung tâm hoạt động giao lưu
văn hoá của phụ nữ Việt Nam và phụ nữ quốc tế vi mục tiêu Bình đẳng - Phát triển
và Hoà bình.
Với
diện tích trưng bày khoảng 1.200m² trong hai khối nhà lớn liên hoàn, bảo tàng
giới thiệu 5 chuyên đề: - Phụ nữ Việt Nam trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
-
Phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
-
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và sự nghiệp đấu tranh giải phóng phụ nữ.
-
Nét văn hoá của phụ nữ Việt Nam qua những sản phẩm thủ công truyền thống.
-
Trang phục phụ nữ các dân tộc Việt Nam.
Gian
đầu tiên là bức tượng "Mẹ Việt Nam dát vàng, cao 3,6m, do nghệ sĩ Phú Cường
thực hiện. Hình ảnh người mẹ khoẻ khoắn, tràn đầy sức sống, dịu
dàng và nhân hậu. Bàn tay phải của bà mở rộng
thể hiện sự vượt qua mọi thử thách khó khăn; tay trái nâng một em bé hai
tay đang vươn về phía trước. Trên trần nhà được bố trí những
chùm đèn trắng thể hiện cho dòng sữa mẹ, một nguồn sống bất tận nuôi bao thế hệ.
Bức tượng là biểu tượng cho sức mạnh, vẻ đẹp và khát vọng cuộc sống của phụ nữ
Việt Nam...
Từ
khi mở cửa đến nay bảo tàng Phụ nữ đã tạo được sức hấp dẫn với du khách trong
và ngoài nước.
Hà Nội - Bảo Tàng Mỹ thuật
Hà Nội - Bảo tàng Mỹ thuật
66 Nguyễn Thái Học - Hà Nội
Ngôi nhà 66 Nguyễn Thái Học từ ngày 24/6/1966 chính
thức trở thành Viện Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Với khoảng 1 vạn tác phẩm, hiện vật gốc, hiện vật
phục chế, phiên bản, tranh ảnh, bảo tàng trưng bày tại 16 phòng với nội dung:
1.
Mỹ
thuật các dân tộc trong đại gia đình tổ quốc Việt Nam.
2.
Mỹ
thuật Việt Nam thời đại nguyên thuỷ và cổ đại (thời đại đá mới, thời đại đồ đồng
và sơ kỳ đồ sắt).
3.
Mỹ
thuật Việt Nam thời phong kiến (thế kỷ 11 - 18).
4.
Nghệ
thuật điêu khắc cổ Việt Nam (những tác phẩm tiêu biểu từ thế kỷ 11 đến thế kỷ
19).
5.
Tranh
dân gian Việt Nam.
6.
Mỹ
thuật ứng dụng và mỹ thuật trang trí dân gian Việt Nam.
7.
Mỹ
thuật Công nghệ Việt Nam hiện đại.
8.
Mỹ
thuật Việt Nam trước Cách mạng Tháng 8/ 1945.
9.
Mỹ
thuật Việt Nam giai đoạn chống Pháp (1946 - 1954).
10. Mỹ thuật Việt
Nam từ năm 1954 đến nay.
|
11.
Ngoài
ra, Bảo tàng còn có những sưu tập từ các triển lãm mỹ thuật chuyên đề từ Trung
ương đến địa phương như nghệ thuật điêu khắc đá cổ Việt Nam, nghệ thuật thời
đại đồ đồng, nghệ thuật gốm cổ Việt Nam, tranh dân gian, tranh các dân tộc ít
người, tranh sơn mài, sơn dầu, điêu khắc. Một số sưu tập nghệ thuật thế giới
cổ đại và cận - hiện đại qua các phiên bản...
Viện Bảo tàng Mỹ thuật là một kho sử sống động về quá
trình hình thành phát triển của mỹ thuật Việt Nam.
Hà Nội - Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam
Hà Nội - Bảo tàng lịch sử Việt Nam
Bảo tàng
Lịch sử Việt Nam
Vị trí: Số 1 Tràng Tiền,
gần hồ Hoàn Kiếm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Ðặc điểm:
Lưu giữ và trưng bày các hiện vật về lịch sử đất nước và con người Việt Nam.
Ở
ngay đầu phố Tràng Tiền, số nhà 1, phía sau Nhà hát Thành phố, nơi đây nguyên
là nhà bảo tàng của trường Viễn Đông Bác Cổ do người Pháp lập ra nǎm 1932.
Giờ mở cửa:
Mở
cửa các ngày trong tuần:
Sáng:
8:00 đến 11:30
Chiều:
13:30 đến 16:30 Ngày ấy, nhà bảo tàng này là nơi trưng bày những đồ cổ,
thu thập được ở các nước Đông Nam Á. Nǎm 1958 người Pháp bàn giao lại ngôi nhà
này cho chính quyền cách mạng. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
được thành lập. Sau nhiều nǎm chỉnh lý, bổ sung, ngày nay viện đã trở
thành một trung tâm vǎn hoá, nghiên cứu và giới thiệu lịch sử bằng hiện vật
quan trọng.
Trong
hai tầng, hàng nghìn hiện vật được trưng bày theo thứ
tự thời gian. Gian đồ đá bày những công cụ lao động và chiến đấu bằng đá đẽo,
đá mài, chứng tích của thời kỳ "ông tổ loài người" mới vứt bỏ lốt áo
thú mà mang bộ áo con người. Chiếc rìu tay bằng đá đẽo
chế tác cách đây chừng ba bốn mươi vạn nǎm tìm thấy ở núi Đọ (Thanh Hoá) đã chứng
minh rằng Việt Nam là một trong những cái nôi cổ sơ của loài người.
Gian
đồ đồng nổi tiếng với những chiếc trống đồng đủ kiểu đủ loại, mà tiêu biểu nhất
là trống đồng Ngọc Lũ đường bệ và thanh tú.
Đã có biết bao công trình nghiên cứu của học giả Việt Nam và thế giới về trống
đồng thông qua tìm hiểu hoa vǎn, chạm khắc, công dụng, kỹ thuật chế tạo... Rồi
còn các rìu, mũi lao, dao gǎm, giáo... bằng đồng và
nhiều loại vũ khí khác mà niên đại tương ứng với thời các vua Hùng dựng nước.
Nơi đây còn có những mũi tên đồng Cổ Loa từ thế kỷ 2 trước công nguyên, thanh mảnh
nhưng lắm gai lắm ngạnh từng khiến cho bọn xâm lược phương Bắc khiếp sợ phải gọi
là mũi tên thần.
Cũng
từ đó, suốt hai nghìn nǎm lịch sử Việt Nam là hai nghìn nǎm liên tục chống giặc
ngoại xâm. Các tấm ảnh chụp những đình, miếu, lǎng
mộ, thành quách, các chân dung danh nhân, danh tướng, các vǎn kiện, danh ngôn,
các hiện vật gốc... tất cả nói lên ý chí quật cường của dân tộc bằng tiếng nói
riêng, với sức thuyết phục riêng của chúng.
Bảo
tàng lịch sử là pho sử bằng hiện vật, đã kể lại một cách sinh động cho người
tham quan hiểu biết thêm về lịch sử giữ nước và dựng nước của người Việt Nam từ
thuở ban đầu khai sáng đến ngày ra đời nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nǎm 1945.
Cinet
Hà Nội - Bảo Tàng Quân Đội
Hà Nội - Bảo tàng quân đội
30 Điện Biên Phủ - Hà Nội
Bảo
tàng quân đội nằm trên đường Điện Biên Phủ, nơi trước đây là trại lính của
quân đội viễn chinh Pháp đã được sửa chữa lại trên diện tích 10.000m2
và diện tích trưng bày là 2.000m2 gồm 30 phòng, mở cửa vào ngày
22/12/1959.
Bảo tàng Quân đội là nơi trưng bày những hiện vật và
tài liệu giới thiệu quá trình ra đời và trưởng thành của các lực lượng vũ trang
nhân dân Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
12. Hiện vật về truyền
thống đánh giặc giữ nước của các thời đại trước.
13. Thời kỳ thành lập
Quân đội nhân dân Việt Nam, thời kỳ tiền khởi nghĩa với những vũ khí thô sơ.
14. Giai đoạn trưởng
thành của Vệ quốc đoàn và Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ 1946-1954, với những
vũ khí, trang bị, sa bàn, bản đồ của các trận đánh lớn, đặc biệt là những hiện
vật về chiến dịch Điện Biên Phủ.
15. Quân đội nhân
dân Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước đến năm 1975.
|
16.
Đặc
biệt có những bản đồ, những sa bàn về chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử. Những hiện vật quý về các trận đánh và những chiến sỹ anh
hùng trong lực lượng vũ trang
được trưng bày tại đây. Bên ngoài nhà trưng bày là những hiện vật lớn: những
vũ khí nặng thu được của địch, những mảnh xác máy bay
Mỹ bị bắn rơi, trong đó có mảnh xác máy bay B52...
Huế - Bảo Tàng Cổ vật Huế
Huế - Bảo tàng cổ vật Huế
Bảo
tàng cổ vật Huế là nơi trưng bày các bộ sưu tập đồ đồng, đồ sành, đồ sứ, đồ
đá, đồ Pháp Lam, áo mão và đồ ngự dụng của vua chúa Việt Nam xưa...
Toà
điện dùng làm Bảo tàng là một toà nhà bảy gian, hai chái trùng thiềm điệp ốc,
nguyên là điện Long An trong cung Bảo Định ở phường
Tây Lộc.
Năm
1885, quân Pháp chiếm Cung Bảo Định làm sở chỉ huy, điện Long An bị triệt hạ,
vật hạng xếp vào kho cho đến năm 1909, đời Duy Tân chuyển ra chỗ hiện nay (số 3
đường Lê Trực) dựng lại làm Tân Thơ Viện và trụ sở của Hội Đô Thành Hiếu Cổ.
Đến năm 1923, đời Khải Định, dùng làm bảo tàng Viện Khải Định (nay là Bảo tàng
cổ vật Huế).
|
|
Ngôi
điện Long An dùng làm bảo tàng là một di tích kiến
trúc hết sức quí giá. Trên các mặt gỗ của điện có khắc chạm 35 bài văn, bài
thơ, bài châm của chính vua Thiệu Trị trước tác.
Cinet
Huế - Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình
Huế
Huế - Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình
Huế
Vị trí: Bảo tàng Mỹ thuật
Cung đình Huế ở tại số 3, đường Lê Trực, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Đặc điểm:
Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế là nơi trưng bày các bộ sưu tập đồ đồng, đồ
sành, đồ sứ, đồ đá, đồ pháp lam, áo mão và đồ ngự dụng của vua chúa đời nhà
Nguyễn.
Tòa
nhà chính để trưng bày các cổ vật tiêu biểu có diện tích gần 1.200m².
Toà nhà này nguyên là điện Long An được kiến trúc vào
năm 1845 dưới thời vua Thiệu Trị. Bản thân toà nhà này là một công trình bằng gỗ
tuyệt mỹ, có tới 128 cây cột gỗ quý. Trên toàn bộ các bộ phận bằng gỗ của toà
nhà chạm trổ hàng trăm bức tranh cổ điển, các con vật thiêng liêng: rồng, lân,
rùa, phụng... và trên 1.000 bài thơ bằng chữ Hán. Nhiều nhà
nghiên cứu đã đánh giá đây là một trong những cung điện đẹp nhất ở Việt Nam.
Trong
cung điện này, hiện trưng bày khoảng 300 hiện vật cổ quý hiếm bằng vàng, bạc,
ngọc, sành, sứ, gỗ...Tại đây, bạn có thể trông thấy bàn, ghế, kiệu, giường, tủ
của nhà vua; giày, hia, y phục của vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử...Tất cả
những cổ vật được trưng bày tại bảo tàng là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị
được các nghệ nhân thực hiện một cách công phu và tài tình.
Khánh Hoà - Bảo Tàng Hải dương học
Khánh Hoà - Bảo tàng Hải Dương học
Trong quá trình tồn tại và phát triển, Bảo tàng Hải Dương đã
khai triển toàn diện các mặt công tác, từng bước nâng cao nghiệp vụ, góp phần
tích cực vào việc bảo tồn và phát huy tốt nhất di sản lịch sử- văn hoá của dân
tộc tại địa phương Sự nghiệp bảo tàng Việt Nam ra đời chậm so với các nước Tây
Âu, nhưng từ khi giải phóng miền Bắc đã có bước tiến vượt bậc, nhất là sau giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Năm 1927, xây dựng
Bảo tàng Hải dương học tại thành phố Nha Trang
Sa bàn, hình ảnh và các mô hình sinh
thái biển
Sa bàn “Địa hình
thềm lục địa Việt
Bể nuôi sinh vật biển:
Sinh vật biển
màu sắc rực rỡ, đa dạng về hình thù, sống trong các rạn: San hô sừng dạng quạt,
Hải quỳ, Cá khoang cổ, Sao biển màu xanh đỏ, Huệ biển, Cầu gai, Hải sâm, Tôm
hùm, Cá bò Picasso, Cá mao tiên, Cá mặt quỷ, Cá thiên thần, Cá thia xanh biếc,
Tôm bác sĩ …
Sinh vật trong bể nuôi ngoài trời
Cá Mao Tiên là
loài cá đặc trưng vùng nhiệt đới, màu sắc nâu đỏ, vàng, hai vây trước xèo rộng
như hai cánh chim, vây lưng tua tủa 13 chiếc gai độc, vây đuôi mỏng trong suốt
có chấm như chiếc quạt Nhật Bản. Đầu sù sì như đầu rồng, thân hình mềm mại như
nàng tiên múa vũ khúc.
Những con Sam sống
thành đôi, có những lúc một con Sam cái dắt theo một
đàn 5, 6 con Sam đực ở phía sau đuôi. Sam được xem là hóa thạch
sống trên hành tinh chúng ta, loài này xuất hiện khoảng 400 triệu năm trước
đây.
Sinh vật sống trong các bể kính:
Sự
cộng sinh được ví như “đôi bạn vàng” giữa các loài Hải Quỳ và Cá Khoang Cổ
(Amphiprion spp.). Hải Quỳ với xúc tu có chứa các túi
thích ti bào rất độc có thể làm tê liệt kẻ thù của nó, tuy nhiên chỉ một loài
sinh vật biển duy nhất có khả năng chống lại độc tố của Hải Quỳ đó là Cá Khoang
Cổ, chúng sống trong các xúc tu của Hải Quỳ. Bù lại cho người bạn đã che chở
mình, Cá Khoang Cổ thường mang về cho bạn mình những thức ăn
ngon.
Các loài cá màu
sắc sặc sỡ thuộc họ cá Bướm (Chaetodontidae), cá Kẽm Bông (Plectorhynchus
chaetodonoides) Cá Kẽm Sọc (P. gaterinoides), Cá Chim Cờ (Heniochus
acuminatus), Cá Bàn Chài (Labridae), Cá Bò Picasso (Rhinecanthus aculeatus), Cá
Bò Đuôi Gai (Acanthurus spp., Naso spp.)
Bảo tàng đa dạng sinh học:
Nơi đây lưu trữ,
trưng bày 20.000 mẫu vật từ các chuyến khảo sát trong vùng Biển Đông và một số
vùng biển lân cận với mục đích bảo vệ sự đa dạng sinh học của các sinh vật biển.
Các mẫu vật được xếp theo phát triển, tiến hóa về sinh
học.
Các mẫu vật lớn . Bộ xương cá voi lưng gù dài 18 m, nặng 18 tấn (Bộ
xương được khai quật tại Tỉnh Nam Hà năm 1994)
Bộ
xương nàng tiên cá (Dugong dugon) khai quật tháng 11/1997 tại bãi Lò Vôi (Côn Đảo),
loài này đang bị nguy cơ tuyệt chủng. Trước năm 1965, Có thấy
Dugong ở một số nơi trên vùng biển phía nam Việt Nam, từ năm 1965 đến 1995
không có thông tin gì về loài này, vào cuối năm 1996 , một nhóm gồn khoảng từ 8
- 12 con xuất hiện ở vùng biển Côn Đảo - Việt Nam.
Các mẫu cá lớn:
Cá Mặt trăng, Cá Nạng Hải (cá Manta)
Các mẫu vật nhỏ:
|
Các loài rùa biển ở Việt |
Những con Chim Yến
trong chiếc tổ làm từ nước dãi của nó trên các vách đá treo leo
giữa biển.
Bạch tuộc đốm
xanh lần đầu tiên thu mẫu được ở Việt
Các mẫu vật Hải cẩu, Cá
tầm Trung Hoa, Cua vua ở các vùng biển lân cận Việt Nam góp phần làm tăng thêm
sự phong phú cho Bảo tàng Hải Dương Học Việt Nam.
Các bộ mẫu San
hô, Thực vật biển, Thân mềm.
Những loài cá lớn như
Cá Mập Vây Đen, Cá Nhám Beo, Cá Đuối luôn cuốn hút mọi người bởi sự năng động
và nhanh nhẹn. Cá Mập được xem như hung thần của biển bởi hàm răng sắn nhọn như
những chiếc bẫy.
Bể nuôi sinh vật biển:
Sinh vật biển
màu sắc rực rỡ, đa dạng về hình thù, sống trong các rạn: San hô sừng dạng quạt,
Hải quỳ, Cá khoang cổ, Sao
|
biển màu xanh đỏ,
Huệ biển, Cầu gai, Hải sâm, Tôm hùm, Cá bò Picasso, Cá mao tiên, Cá mặt quỷ, Cá
thiên thần, Cá thia xanh biếc, Tôm bác sĩ
Sa bàn, hình ảnh và các mô hình sinh
thái biển
Sa bàn “Địa hình
thềm lục địa Việt
Bể
nuôi sinh vật biển:
|
Sinh vật biển màu sắc rực rỡ, đa dạng về hình thù, sống
trong các rạn: San hô sừng dạng quạt, Hải quỳ, Cá khoang cổ, Sao
biển màu xanh đỏ,
Huệ biển, Cầu gai, Hải sâm, Tôm hùm, Cá bò Picasso, Cá mao tiên, Cá mặt quỷ, Cá
thiên thần, Cá thia xanh biếc, Tôm bác sĩ …
Sinh
vật trong bể nuôi ngoài trời
|
Cá Mao Tiên là loài cá đặc trưng
vùng nhiệt đới, màu sắc nâu đỏ, vàng, hai vây trước xèo rộng như hai cánh chim,
vây lưng tua tủa 13 chiếc gai độc, vây đuôi mỏng trong suốt có chấm như chiếc
quạt Nhật Bản. Đầu sù sì như đầu rồng, thân hình mềm mại như nàng tiên múa vũ
khúc.
Những con Sam sống thành đôi, có những lúc một con Sam cái
dắt theo một đàn 5, 6 con Sam đực ở phía sau đuôi. Sam được xem là hóa thạch sống trên hành tinh chúng ta, loài này
xuất hiện khoảng 400 triệu năm trước đây.
Sinh
vật sống trong các bể kính:
Sự cộng sinh được ví như “đôi bạn
vàng” giữa các loài Hải Quỳ và Cá Khoang Cổ (Amphiprion spp.). Hải Quỳ với xúc tu có chứa các túi
thích ti bào rất độc có thể làm tê liệt kẻ thù của nó, tuy nhiên chỉ một loài
sinh vật biển duy nhất có khả năng chống lại độc tố của Hải Quỳ đó là Cá Khoang
Cổ, chúng sống trong các xúc tu của Hải Quỳ. Bù lại cho người bạn đã che chở
mình, Cá Khoang Cổ thường mang về cho bạn mình những thức ăn
ngon.
|
Các loài cá màu sắc sặc sỡ thuộc họ
cá Bướm (Chaetodontidae), cá Kẽm Bông (Plectorhynchus chaetodonoides) Cá Kẽm
Sọc (P. gaterinoides), Cá Chim Cờ (Heniochus acuminatus), Cá Bàn Chài
(Labridae), Cá Bò Picasso (Rhinecanthus aculeatus), Cá Bò Đuôi Gai (Acanthurus
spp., Naso spp.).
Các loài cá quý
hiếm thuộc họ Cá Chim Xanh như Cá Hoàng Đế (Pomacanthus imperator), Cá Hoàng Hậu
(P. annularis), Cá Bò Bông Bi (Balistoide conspicillum), Cá
Chình Thiên Long (Rhinomuraena quaesita) …
Các
loài cá Ngựa (Hippocampus spp.), Cá Thia, Cá Mú, Cá Trình với các màu sắc rực rỡ
sống trong các hốc san hô.
Hải
Quỳ Ống, Sao biển, Cầu gai, Hải sâm, Rắn biển, Huệ biển, Rùa tiêu biểu cho cuộc
sống trầm lặng của biển.
Bảo tàng đa dạng sinh học:
Nơi đây lưu trữ,
trưng bày 20.000 mẫu vật từ các chuyến khảo sát trong vùng Biển Đông và một số
vùng biển lân cận với mục đích bảo vệ sự đa dạng sinh học của các sinh vật biển.
Các mẫu vật được xếp theo phát triển, tiến hóa về sinh
học.
|
Các
mẫu vật lớn :
Bộ xương cá voi
lưng gù dài 18 m, nặng 18 tấn (Bộ xương được khai quật tại Tỉnh Nam Hà năm
1994)
Bộ xương nàng tiên cá (Dugong dugon)
khai quật tháng 11/1997 tại bãi Lò Vôi (Côn Đảo), loài này đang bị nguy cơ
tuyệt chủng.
Trước năm 1965, Có thấy Dugong ở một số nơi trên vùng biển phía nam Việt Nam,
từ năm 1965 đến 1995 không có thông tin gì về loài này, vào cuối năm 1996 , một
nhóm gồn khoảng từ 8 - 12 con xuất hiện ở vùng biển Côn Đảo - Việt Nam.
Các mẫu cá lớn: Cá Mặt trăng, Cá Nạng Hải (cá Manta)
|
Các mẫu vật nhỏ:
Những con Chim Yến
trong chiếc tổ làm từ nước dãi của nó trên các vách đá treo leo
giữa biển.
Bạch tuộc đốm xanh lần đầu tiên thu
mẫu được ở Việt
|
Các
mẫu vật Hải cẩu, Cá tầm Trung Hoa, Cua vua ở các vùng biển lân cận Việt Nam góp
phần làm tăng thêm sự phong phú cho Bảo tàng Hải Dương Học Việt Nam.
Các bộ mẫu San
hô, Thực vật biển, Thân mềm.
(Cinet)
Khánh Hoà - Bảo tàng tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hoà - Bảo tàng tỉnh Khánh Hòa
Địa chỉ:
16 Trần Phú, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
Điện
thoại: (84-58) 813 654.
Đặc điểm:
Bảo tàng tỉnh Khánh Hòa hiện đang bảo quản gần 10.000 hiện vật gốc, hơn 5.000
tư liệu hình ảnh thuộc về các thời kỳ lịch sử khác nhau, trong đó có nhiều hiện
vật thuộc loại quý hiếm.
Bảo
tàng tỉnh Phú Khánh (nay là Bảo tàng tỉnh Khánh Hòa) được thành lập theo Quyết định số 1329/UB-TC, ngày 13/6/1979 của Chủ tịch
UBND tỉnh Phú Khánh (cũ).
Bảo
tàng đã sưu tập được nhiều hiện vật tiêu biểu như sưu tập rìu đá, đồ trang sức
bằng đá thuộc văn hóa Xóm Cồn (cách ngày nay khoảng 3.500 năm); trống đồng Nha
Trang (niên đại cách đây 2.000 năm); điêu khắc đá Chăm pa (thế kỷ 9 đến thế kỷ
14); tiền cổ (từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 18); đồ gốm thương mại (từ thế kỷ 9 đến thế
kỷ 18); sưu tập vũ khí trong thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ...
Hệ
thống trưng bày đang giới thiệu các chuyên đề: các văn hóa cổ ở Khánh Hòa; truyền
thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa, giai đoạn
1930-2002;
thân
thế và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969); chuyên đề các
Bà mẹ Việt
Nghệ An -
Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh
Nghệ Anh - Bảo tàng Xô Viết Nghệ
Tĩnh
Vị trí: Bảo tàng Xô Viết
Nghệ Tĩnh nằm ở trong khu nội thành Vinh, tỉnh Nghệ An.
Đặc điểm:
Bảo tàng trưng bày các di vật và tài liệu trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh
1930-1931.
Đây
là công trình văn hoá độc đáo lưu giữ trên 5.000 hiện vật gốc và các tư liệu thể
hiện tinh thần cách mạng kiên cường bất khuất của nhân dân Nghệ Tĩnh trong cao
trào Xô Viết 1930 - 1931.
Bảo tàng được dựng năm 1960 trên một khuôn viên rộng, đẹp.
Bảo tàng thu hút đông đảo khách trong và ngoài nước.
Thái Nguyên - Bảo tàng Văn hoá các
Dân tộc Việt Nam
Thái Nguyên - Bảo tàng Văn hoá các
Dân tộc Việt Nam
Vị trí: Bảo tàng Văn
hoá các Dân tộc Việt
Đặc điểm:
Bảo tàng được xây dựng vào năm 1960 trên một khuôn viên rộng, có nhiều cây cổ
thụ. Bảo tàng đã trưng bày, giới thiệu nhiều hiện vật là di sản
văn hoá truyền thống của đại gia đình 54 dân tộc Việt
Bảo
tàng có tổng diện tích khoảng 39.000m2 với hơn 3.000m2 sử dụng cho khu
trưng bày, kho bảo quản hiện vật và các hoạt động khác.
Hiện
nay, Bảo tàng lưu giữ hơn 20.000 đơn vị tài liệu hiện vật gốc quý hiếm thuộc di
sản văn hoá của 54 dân tộc Việt
Hệ
thống trưng bày gồm 6 phòng, mỗi phòng sử dụng gần 2.000 đồ vật gồm các đơn vị
hiện vật gốc, ảnh và tài liệu khoa học bổ trợ.
-
Phòng mở đầu: khái quát đặc trưng văn hoá các dân tộc Việt
-
Phòng Việt - Mường gồm dân tộc: Việt, Mường, Thổ, Chứt.
-
Phòng Tày - Thái gồm các dân tộc: Tày, Nùng, Thái, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y.
-
Phòng Mông - Dao và nhóm Nam á khác gồm dân tộc: H'Mông, Dao, Pà Thẻn, La Chí,
La Ha, Cờ Lao, Pu Péo.
-
Phòng Môn - Khmer gồm các dân tộc: Khơ Mú, Mảng, Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu, Khmer,
Ba Na, Xơ Đăng, Cơ Ho, Hrê, M;Nông, Xtiêng, Bru-Vân Kiều, Cờ Tu, Giẻ Triêng, Mạ,
Co, Tà Ôi, Chơ Ro, Brâu, Rơ Măm.
-
Phòng Hán - Hoa, Tạng Miến, Mạ, Ô-Pô-li-nê-di gồm các dân tộc: Hoa, Ngái, Sán
Dìu, Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Lô Lô, Cống, Si La, Gia Rai, Ê Đê, Chăm, Ra Glai,
Chu Ru.
Ngoài
ra, bảo tàng còn có một khu trưng bày ngoài trời hấp dẫn. Bảo
tàng đã thu hút nhiều du khách trong nước, ngoài nước
và kiều bào đến thăm quan, tìm hiểu bản sắc văn hoá các dân tộc Việt
TPHCM - Bảo tàng Cách mạng thành phố
TPHCM - Bảo tàng Cách mạng Thành phố
Vị trí: Số 65 Lý Tự Trọng,
quận 1, Tp. Hồ Chí Minh.
Ðặc điểm:
Toà nhà được xây dựng từ năm 1885 hoàn thành năm 1890, theo đồ án của kiến trúc
sư người Pháp là Alfred Foulhoux, để làm nhà trưng bày sản phẩm Nam Kỳ nhưng
xây xong Thống đốc Nam Kỳ lấy làm tư dinh.
Sau
đó, nơi đây lần lượt làm dinh Thống đốc Nhật Minôda, dinh Khâm sai đại thần
Nguyễn Văn Sâm, trụ sở Uỷ ban Hành chánh Lâm thời Nam Bộ (1945), trụ sở của Cao
uỷ Cộng hoà Pháp, dinh Thủ hiến Nam Kỳ của Trần Văn Hữu, Dinh thủ hữu Nam phần,
Dinh Gia Long của Ngô Ðình Diệm và cố vấn Nhu chạy trốn từ đường hầm dưới ngôi
nhà này. Thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu, toà nhà này được dùng làm
Tối cao pháp viện.
Ngày
12/8/1978 ngôi nhà này được sử dụng làm nhà Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí
Minh.
Bảo tàng thể hiện các nội dung chính như sau:
1.
Lược sử Sài Gòn xưa.
2.Thực
dân Pháp xâm lược Việt
3.Ðảng
cộng sản Việt
5.Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Sài Gòn - Gia Ðịnh và chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954 -1975).
Cinet
TPHCM - Bảo tàng Chiến dịch Hồ Chí
Minh
TPHCM - Bảo tàng Chiến dịch Hồ Chí
Minh
Vị trí: Số 2, đường Lê
Duẩn, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Đặc điểm:
Công trình này được xây dựng vào đầu thế kỷ 20, do kiến trúc sư người Pháp thiết
kế. Trước năm 1975 là trường Cao đẳng Quốc Phòng của chính
quyền Sài Gòn. Sau năm 1975 là bảo tàng, ghi lại những
chiến công của quân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Thành
lập từ năm 1986, Bảo tàng Chiến dịch Hồ Chí Minh (thuộc Bảo tàng Quân khu 7)
trưng bày nhiều bộ sưu tập, hiện vật độc đáo, quý giá thể hiện một giai đoạn lịch
sử hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ chiến dịch đường 14 -
Phước Long, chiến dịch Tây Nguyên-Huế-Đà Nẵng đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Năm 2003, Bộ tư lệnh Quân khu 7 đã đầu tư để nâng cấp cơ sở vật chất, chỉnh
trang, trưng bày mới lại bảo tàng. Nội dung trưng bày gồm: Bộ chỉ huy Chiến dịch
Hồ Chí Minh; Sự sụp đổ của ngụy quyền Sài Gòn (30/4/1975), Điện ảnh Quân giải
phóng (B2).
TPHCM - Bảo Tàng Chứng tích Chiến
Tranh
TPHCM - Bảo tàng chứng tích chiến
tranh
Vị trí: 28 Võ Văn Tần,
quận 3, Tp. Hồ Chí Minh.
Ðặc điểm:
Ðược thành lập tháng 9-1975, tiền thân là nhà trưng bày tội ác chiến tranh Mỹ -
Ngụy.
Bảo
tàng trưng bày một số hiện vật, hình ảnh tội ác của Mỹ - Ngụy trong chiến tranh
với các chủ đề: lính Mỹ tàn sát nhân dân, rải chất độc hóa học, tra tấn, tù
đày, chiến tranh phá hoại miền Bắc. Các hiện vật như máy bay, đại bác, xe tăng,
máy chém và hai ngăn "chuồng cọp" được xây dựng đúng kích thước như ở
nhà tù Côn Ðảo.
Có các phòng trưng bày về: Chiến
tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, vấn đề quần đảo
Trường Sa, âm mưu của các thế lực địch. Bên ngoài, bảo tàng
có những gian hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm văn hoá dân tộc Việt
TPHCM - Bảo tàng Hồ Chí Minh
TPHCM - Bảo tàng Hồ Chí Minh
Vị trí: Số 1 Nguyễn Tất
Thành, quận 1, Tp. Hồ Chí Minh.
Ðặc điểm:
Bến Nhà Rồng hay khu lưu niệm Bác Hồ nằm bên ngã ba sông Sài Gòn, đầu đường
Nguyễn Tất Thành. Nơi đây ngày 5/6/1911, ngưởi thanh niên Nguyễn Tất Thành mà
sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuống tàu "Ðô đốc Latouche
Tréville" ra đi tìm đường cứu nước.
Nhà
Rồng nguyên là trụ sở của đại diện hãng chuyên chở hàng hải Pháp (thuộc Công ty
vận tải đường biển Pháp Messageries Pharitimes) xây cất năm 1862 làm nơi ở cho
viên tổng quản lý và là nơi bán vé tàu. Toà nhà có hình 2 con
rồng trên nóc. Con tầu đầu tiên rời bến Nhà Rồng vào tháng 11 năm 1862.
Ngày
3 tháng 9 năm 1979, Uỷ ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh quyết định lấy Nhà Rồng là
"Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh" (tức Bảo tàng Hồ Chí Minh - Bến
Nhà Rồng). Bên trong khu nhà lưu niệm có trưng bày nhiều hình ảnh và hiện vật về
đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch. Từ đó đến nay, Bảo tàng Hồ Chí Minh - Bến Nhà Rồng
đã đón tiếp hàng chục triệu lượt khách trong và ngoài nước vào tham quan. Ngoài
ra, tại đây thường tổ chức những cuộc vui lớn, biểu diễn nghệ thuật, nghe kể
chuyện truyền thống, tổ chức lễ kết nạp Ðảng, kết nạp Ðoàn viên...
TPHCM - Bảo Tàng Lịch Sử
TPHCM - Bảo tàng lịch sử HCM
2 Nguyễn Bỉnh Khiêm - TP. Hồ Chí Minh
|
Bảo tàng lịch sử Việt Nam TP. Hồ Chí Minh được xây
dựng năm 1929, tiền thân của nó là Viện Bảo tàng Blanchard de la Brosse. Từ 1929 đến 1956 trưng bày chủ yếu về mỹ thuật cổ của
một số nước Châu Á. Từ 1956 đến 1975 là Viện Bảo tàng Quốc gia Sài Gòn.
Sau năm 1975 Bảo tàng mở rộng thêm diện tích và trở thành Bảo
tàng Lịch sử Dân tộc như hiện nay.
Bảo tàng có hai phần trưng bày:
Phần 1: Trưng bày lịch sử Việt Nam từ khi có dấu vết con người
(cách đây khoảng 300.000 năm) đến năm 1930 khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời,
gồm các phòng:
17. Thời kỳ Nguyên
thủy ở Việt
18. Thời kỳ Hùng Vương
dựng nước.
19. Thời kỳ đấu
tranh giành độc lập dân tộc (thế kỷ I - X).
20. Thời Lý (thế kỷ
XI - XIII).
21. Thời Trần (thế kỷ
XIII - XIV).
22. Thời Lê (thế kỷ
XV - XVII).
23. Thời Tây Sơn (thế
kỷ XVIII - đầu XIX).
24. Thời Nguyễn (thế
kỷ XIX - giữa XX).
Phần 2: Trưng bày một số chuyên đề mang đặc trưng của khu
vực phía Nam như: văn hoá Óc Eo; văn hoá cổ Đồng bằng sông Cửu Long, nghệ
thuật Chăm pa; Bến Nghé Sài Gòn, thành phần các dân tộc Việt Nam, gốm cổ một số
nước Châu Á. Ngoài hệ thống trưng bày, Bảo tàng còn một hệ thống kho bảo quản
hiện vật với số lượng và loại hình phong phú.
TPHCM - Bảo tàng Mỹ thuật
TPHCM - Bảo tàng Mỹ thuật Tp. Hồ Chí
Minh
23/05/2007, 12h39
Bảo tàng
Mỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh
Vị trí: 97A, Phó Ðức
Chính, phường Nguyễn Thái Bình, quận 1, Tp. Hồ Chí Minh.
Ðặc điểm:
Bảo tàng là nơi có các hoạt động triển lãm mỹ thuật và trưng bày các tác phẩm hội
hoạ và điêu khắc qua các thởi kỳ Việt
Bảo
tàng Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh được thành lập theo
quyết định số 194/QÐ - UB ngày 5-9-1987 của UBND thành phố, nhưng đến năm 1991
mới chính thức hoạt động. Bảo tàng gồm 3 lầu:
Lầu
1: dành cho hoạt động triển lãm mỹ thuật của những tác giả trong và ngoài nước.
Lầu
2: trưng bày các tác phẩm hội hoạ và điêu khắc có giá trị mỹ thuật của những
tác giả trong và ngoài nước.
Lầu
3: trưng bày các tác phẩm mỹ thuật từ thế kỷ 7 đến đầu thế kỷ 20: Mỹ thuật
Chămpa và Óc Eo từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 17; Cổ vật Việt Nam (Gốm sứ, đồ sơn son
thếp vàng, gỗ khảm xà cừ...) từ đầu thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20; nghệ thuật
phương Tây ở Việt Nam từ thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20.
Cinet
TPHCM - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ
TPHCM - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ
23/05/2007, 12h45
Vị trí: 202 Võ Thị Sáu,
phường 7, quận 3, Tp. Hồ Chí Minh.
Ðặc điểm:
Toà nhà này nguyên là dinh cơ của Nguyễn Ngọc Loan - Giám đốc Tổng nha Cảnh Sát
chế độ nguỵ quyền Sài Gòn cũ. Năm 1984 được Nhà nước giao làm
Nhà truyền thống Phụ nữ Nam Bộ. Sau đó được xây thêm toà nhà 4 tầng và đổi
thành Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ.
Bảo
tàng Phụ nữ Nam Bộ có diện tích trưng bày khoảng 2000m2 gồm 10 phòng trưng bày
về truyền thống dựng nước và giữ nước của phụ nữ Nam Bộ. Có một hội trường 800
chỗ ngồi, một phòng chiếu phim, một thư viện và một kho lưu giữ hàng trục ngàn
hiện vật, tranh ảnh quý hiếm.
Bảo
tàng Phụ nữ Nam Bộ mở cửa từ năm 1985, là trung tâm sinh hoạt văn hoá giáo dục,
hội thảo khoa học, họp mặt truyền thống, giao lưu văn hoá của giới nữ nhằm bảo
tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp của phụ nữ.
Cinet
TPHCM - Bảo tàng Tôn Đức Thắng
TPHCM - Bảo tàng Tôn Đức Thắng
Vị trí: 5 Tôn Ðức Thắng,
quận 1, Tp. Hồ Chí Minh.
Ðặc điểm:
Bảo tàng Tôn Ðức Thắng được thành lập nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch
Tôn Ðức Thắng (20/8/1888 - 20/8/1988) tại toà nhà vốn là tư dinh của Trần Thiệu
Khiêm, Thủ tướng của chính quyền Sài Gòn trước năm 1975.
Bảo
tàng là nơi lưu giữ, nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu, về cuộc đời và sự nghiệp
của Chủ tịch Tôn Ðức Thắng - nhà yêu nước lớn, một chiến sĩ kiên cường mẫu mực.
Chủ tịch Tôn Ðức Thắng là người Việt Nam duy nhất đã tham gia phản chiến trên
chiến hạm tại biển Ðen vào năm 1917, ủng hộ cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên
thế giới thắng lợi - cách mạng tháng muời Nga. Là người kế tục
chức vụ Chủ tịch nước Việt
Hiện
nay, Bảo tàng có 7 phòng trưng bày với diện tích trên 700m2.
Bảo tàng đã thể hiện một cách sinh động , khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của
Chủ tịch Tôn Ðức Thắng qua hơn 600 hiện vật, tài liệu, hình ảnh.
Cinet
Sóc Trăng - Bảo tàng Khmer Sóc Trăng
Vị trí: Bảo tàng nằm đối
diện với chùa Khleang tại thị xã Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
Đặc điểm:
Bảo tàng là công trình có kiến trúc theo phong cách
chùa của người Khmer.
Trong
bảo tàng trưng bày nhiều hiện vật quý, phản ánh đời sống văn hoá vật chất và
tinh thần của đồng bào Khmer qua nhiều thế hệ như: trang phục, kiến trúc nhà ở,
chùa, nhạc cụ... Đến thăm Bảo tàng Khmer Sóc Trăng, du khách
hiểu hơn về cộng đồng người Khmer - bộ phận cư dân quan trọng của tỉnh Sóc
Trăng.
Sơn La - Bảo tàng và Nhà tù Sơn La
Sơn La - Nhà tù và Bảo tàng Sơn La
22/05/2007, 15h29
Vị trí: Nhà tù và Bảo
tàng Sơn La nằm ở thị xã Sơn La, tỉnh
Đặc điểm:
Nhà tù Sơn La do người Pháp xây dựng năm 1908 trên đồi Khau Cả. Nơi giam
giữ nhiều chiến sỹ cách mạng Việt
Ban
đầu là một nhà tù nhỏ hàng tỉnh, được mở rộng quy mô vào những năm 1930 - 1940.
Giai đoạn từ 1930 - 1945 tại đây giam cầm hơn một ngàn tù nhân, trong đó có nhiều
vị là cán bộ chủ chốt của cách mạng Việt
Đến
với di tích Nhà tù Sơn La, thăm các xà lim ngầm, xà lim chéo, trại ba gian cùng
với hàng trăm hiện vật, du khách sẽ chứng kiến hoàn cảnh sống cơ cực của tù
nhân, càng khâm phục ý chí kiên cường của họ trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
dân tộc. Du khách sẽ không khỏi xúc động đứng trước cây đào
mang tên Tô Hiệu, bên tường đá nhà ngục cây đào luôn xanh tươi - biều tượng cho
ý chí bất khuất của người cộng sản.
Bên
cạnh khu di tích nhà tù là Nhà Bảo tàng tổng hợp của tỉnh Sơn La, nơi trưng bày
nhiều hiện vật quí giới thiệu truyền thống lịch sử, văn hoá của cộng đồng 12
dân tộc đoàn kết cùng nhau xây dựng Sơn La thành tỉnh giàu có của Việt Nam.Di
tích nhà tù Sơn La được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng năm 1962. Hàng năm đón
hơn trăm nghìn lượt du khách đến tham quan.
Cinet
An Giang - Khu tưởng niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng
Khu tưởng niệm Chủ tịch Tôn Đức
Thắng
28/05/2007, 14h48
|
|
Vị trí: Khu tưởng niệm
Chủ tịch Tôn Đức Thắng thuộc xã Mỹ Hoà Hưng, Tp. Long Xuyên, tỉnh An
Giang, trêncù lao Ông Hổ.
Đặc điểm:
Tại đây có đền thờ, nhà lưu niệm và ngôi nhà gỗ cổ là nơi Chủ tịch Tôn Đức
Thắng đã sống thời thơ ấu.
Từ
Tp Long Xuyên, bằng nhiều phương tiện đường thuỷ, du khách có thể đến cù
lao Ông Hổ, thăm khu tưởng niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Tại đây có đền thờ,
nhà lưu niệm và ngôi nhà cổ.
Khu
tưởng niệm xây dựng 5/1997, hoàn thành 8/1998 nhân ngày sinh thứ 110 của
Chủ tịch Tôn Đức Thắng, trên khuôn viên 1.600m², cạnh ngôi nhà cổ
của gia đình Bác. Đền thờ kiến trúc cổ lầu tam cấp, các chi
tiết bằng gỗ đều là gỗ quý. Vị trí trang trọng có tượng bán thân Chủ tịch
Tôn Đức Thắng, phía trên bao lam là rồng cuốn thư mang dòng chữ vàng
"Chủ tịch Tôn Đức Thắng", hai bên bao lam chạm hình cây
trúc, phía dưới là cá chép đỡ bao lam. Xung quanh đền trang trí
biểu tượng ngũ phúc (phúc, lộc, thọ, khang, ninh).
Ngôi
nhà cổ là nơi Chủ tịch đã sống thời thơ ấu, do thân sinh của Bác là cụ Tôn
Văn Đề xây dựng năm 1887, kiến trúc hình chữ "Quốc", khung cột
sàn nhà bằng gỗ, mái lợp ngói ống, ngang 12m, dài 13m. Phía
sau ngôi nhà này có 4 ngôi mộ của thân phụ, thân mẫu và vợ chồng người em
trai của Bác Tôn. Ngôi nhà này được Bộ Văn hóa - Thông
tin công nhận di tích tháng 12/1989.
Đối
diện với đền thờ là nhà lưu niệm, trưng bày hiện vật, tư liệu hình ảnh về cuộc
đời và sự nghiệp của Bác Tôn. Bước qua cửa có
hai câu đối: "Tựa lưng Bảy Núi, uống nước Cửu Long, Mỹ Hòa Hưng ngời danh
sứ sở/ Khơi lửa Ba Son, kéo cờ Bắc hải, Tôn Đức Thắng dạng tiếng non
sông".
Cinet
An Giang - Bia đá và Tượng phật bốn tay chùa Linh Sơn
Bia đá và tượng phật bốn tay chùa Linh Sơn
Hai
bia đá và tượng phật bốn tay chùa Linh Sơn thuộc xã Vọng Khê, huyện Thoại Sơn,
tỉnh An Giang, cách Long Xuyên 42 Km. Đi từ Long Xuyên đến núi Sập vào Vọng Thê
12 km. Từ chợ Vọng Thê đi theo triền núi Ba Thê về hướng Đông 2 km là đến chùa
Linh Sơn.
Về
nguồn gốc ra đời của di tích lịch sử trên được các cụ bô lão địa phương và các
vị sư trụ trì chùa Linh Sơn kể lại như sau:
1- Về hai bia đá chữ cổ này dựng lên từ bao giờ không ai được biết. Bia thuộc loại đá bùn, chiều cao tính từ nền chùa là 1,8m,
rộng 01m, dầy 0,2m. Chữ trên bia đá, chưa ai đọc được.
Theo các nhà khảo cổ, đây không phải chữ Khơ Me, cũng không phải chữ Phạn cổ,
có thể là chữ của dân tộc Phù Nam cổ có niên đại trên dưới 2000 năm, thuộc nền
văn hóa Óc Eo.
2-
Về tượng phật bốn tay: Năm 1912, thực dân Pháp cho xe ủi
đất làm đồn Ba Thê. (gần chợ Ba Thê ngày nay) thì phát
hiện được tượng phật bốn tay này ở độ sâu 02m. Nhân dân quanh vùng đem về đặt
lên hai bia đá chữ cổ vừa nêu trên và lạ thay rất vừa
vặn. Từ đó nhân dân đóng góp tiền của cất lên ngôi chùa Linh
Sơn để thờ cúng cho đến ngày hôm nay.
Theo
các nhà khảo cổ học dự đoán tại hai bia đá và khu vực
chùa Linh Sơn có khả năng là trung tâm nền văn hóa Óc Eo. Do đó, năm 1980, tỉnh
An Giang đã khoanh vùng bảo vệ khu di tích này.
Về
tượng phật trên đầu có chạm 9 thần rắn, nằm che phủ, các thần rắn này cùng một
khối đá chung với tượng phật. Hiện nay hai bia đá và tượng phật bốn tay được bảo vệ tốt, do nhà sư do
Thích Thiện Trí trông nom, gìn giữ. Hàng năm, nhân dân đến cúng
lễ rất đông.
(Cinet)
Bà Rịa - Vũng Tàu - Côn Đảo
Côn Đảo
28/05/2007, 15h06
Vị trí: Côn Đảo - huyện
Côn Đảo, thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cách Tp. Vũng Tàu 180km, cách Tp. Hồ Chí
Minh 230km.
|
|
|
Đặc điểm:
Côn Ðảo là một quần đảo gồm 14 đảo lớn, nhỏ, có địa thế hùng vĩ,
có tài nguyên thiên nhiên phong phú, có nhiều phong cảnh và bãi biển đẹp cùng với
di tích nhà tù nổi tiếng.
Du
khách có thể đi bằng máy bay trực thăng hoặc bằng tàu biển để ra Côn Ðảo.
Từ
giữa thế kỷ 19 đến năm 1975, Côn Ðảo bị biến thành một nhà tù khổng lồ, giam giữ
hàng trăm nghìn người yêu nước Việt
Chúng
ta đến thăm Côn Ðảo, không chỉ đến thăm chứng tích "địa ngục trần
gian" của thực dân đế quốc mà còn là đến với những hòn đảo đẹp luôn rực rỡ
sắc biển, màu trời, những hòn đảo xanh tươi của rừng núi, của lúa, của tiêu, của
dừa và của các loài thú quý hiếm...
Những
địa danh trên Côn Ðảo gắn liền với tài nguyên thiên nhiên phong phú của nơi
đây. Ðảo lớn nhất là Côn Sơn với trung
tâm đảo là Côn Lôn. Hòn Cau cách Côn Lôn 8km, rộng 1,8 km² là nơi có nhiều
cau rừng quả to gần như quả trứng gà, hạt đỏ như son. Hòn Tre Lớn, Hòn Tre Nhỏ
có rừng tre dầy, thân trắng và lớn như thân cây vầu, cây bương. Hòn Trai có nhiều trai ngọc quý. Hòn Trứng
là nơi cư ngụ của nhiều loài chim biển. Hòn Bà cách Côn Lôn vài trăm mét
có đỉnh núi cao 321m, trên có tảng đá to hình một người phụ nữ. Hòn Bảy Cạnh cách Côn Lôn 7km có ngọn Hải Đăng xây năm 1884, tầu
thuyền trên biển ở xa trên 70km còn nhìn thấy.
Nằm
trong vùng khí hậu á xích đạo - hải dương nóng ẩm, nhiều nắng gió, Côn Ðảo có hệ
sinh thái hết sức phong phú và đa dạng. Rừng Côn Ðảo
xanh tốt um tùm với nhiều loại cây gỗ quý như bời lời, lát hoa, sao đen, cẩm
thi, thiên niên kiện, săng đào, dầu lá bóng... Ðộng vật ở Côn Ðảo cũng có nhiều
loài như chồn, sóc, kỳ đà, khỉ, hươu, nai, gà rừng..., đặc biệt có sóc mun toàn
thân đen tuyền không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta. Ở đây có các loài
chim quý hiếm như: chim điêu mặt xanh, én biển...
Vùng
biển Côn Ðảo có nhiều loài hải sản quý, có giá trị kinh tế cao như tôm hùm, cá
hàng, cá gióng, cá mập, cá heo, cá nhám, hải sâm, đồi mồi, vích…
Cùng
với việc khai thác thế mạnh về tài nguyên rừng, biển của Côn Ðảo, người dân nơi
đây đang phát triển việc trồng và chế biến những nông sản có giá trị hàng hoá
cao như hồ tiêu, dừa, cây thuốc... Và cũng chính những mặt hàng có giá trị cao
về nông, lâm, ngư nghiệp của Côn Ðảo đã góp phần làm
nên sự nổi tiếng của vùng đảo giầu đẹp này.
Côn
Ðảo cũng đang phát huy thế mạnh du lịch của mình.
Trên đảo Côn Sơn có sân bay Cỏ Ống là cầu nối quần đảo với đất
liền, rất thích hợp cho sự đưa đón khách du lịch. Thị
trấn có rất nhiều cây bàng nên vào những ngày nắng nóng vẫn rợp bóng xanh mát.
Các bãi tắm ở Côn Ðảo còn nhiều nét hoang sơ với môi trường trong lành, trong
đó có những bãi rất đẹp như Hàng Dương, Phi Yến, Ðầm Trầu... bằng phẳng, sạch sẽ,
nước trong xanh, có thể nhìn rõ đáy cát.
Không
thể không nhắc đến một sự kiện lịch sử thú vị là năm 1284 nhà thám hiểm Marco
Polo đã ghé qua Côn Ðảo.Côn
Ðảo là địa danh du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Cinet
Bắc Giang - Thành cổ Xương Giang
Thành cổ Xương Giang
28/05/2007, 15h20
Vị trí: Thành cổ Xương
Giang nằm ở xã Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
Đặc điểm: Xương Giang là tên ngôi thành cổ do quân Minh
xây dựng vào thế kỷ thứ 15.
Các dấu tích còn lại cho biết thành hình chữ nhật, chiều dài theo hướng Đông -
Tây đo được 600m, chiều rộng theo hướng Bắc - Nam 450m, diện tích 27ha, tường đắp
đất cao dầy, bốn góc có pháo đài, hào rộng bao quanh, mở 4 cửa, cửa chính trông
về phía Tây. Đây là nơi diễn ra trận công thành của nghĩa quân Lam Sơn ngày
28/9/1427 và trận diệt viện oanh liệt ngày 3/11/1427 mà Lê Quý Đôn đánh giá:Từ triều Trần bắt được Tích Lệ Cơ, Ô Mã Nhi cho đến lúc ấy,
nước Nam thắng giặc phương Bắc chưa có trận nào lớn như vậy (theo Đại Việt
thông sử).
Để
kỷ niệm lịch sử chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn tại thành Xương Giang, hàng
năm tỉnh Bắc Giang tổ chức lễ hội kéo dài trong 2 ngày mùng 6 và mùng 7 tháng
giêng.
Cinet
Bến Tre - Làng du kích Đồng Khởi
Làng du kích Đồng Khởi
28/05/2007, 15h31
Vị trí: Làng du kích Đồng
Khởi thuộc xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, cách Tx. Bến Tre 15km
Đặc điểm:
Làng du kích Đồng Khởi là nơi nổi dậy đầu tiên của phong trào Đồng Khởi năm
1960.
Ở đây có nhà triển lãm tất cả các loại vũ khí thô sơ tự tạo trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Bến Tre đang xây dựng khu di tích Đồng Khởi để
tái tạo lại hình ảnh của một làng đã từng là cái nôi cách mạng của miền Nam.
Cinet
Bình Định - Tháp Cánh Tiên
Tháp Cánh Tiên
28/05/2007, 15h41
Vị trí: Tháp Cánh Tiên nằm giữa thành Ðồ Bàn, thuộc làng Nam An, xã Nhơn Hậu,
huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, cách thành phố Qui Nhơn 27km về hướng tây bắc.
Đặc điểm: Tháp xây trên một đỉnh đồi cao chừng vài chục
thước, thờ bà Nữ Thần Y A Na.
Tháp Cánh Tiên có bề mặt vuông, nhiều tầng xây
bằng gạch, cao gần 20m, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên đang bay lên
trời.
Đây là một trong những ngôi tháp điển hình cho
phong cách kiến trúc Bình Định. Kết cấu gồm tiền sảnh và điện thờ (tiền sảnh bị
đổ sụp). Phía ngoài thân tháp, các mặt tường được trang trí những cột ốp và
các khung dọc nhô ra. Khác với các tháp chàm khác, tháp Cánh Tiên được
xây dựng một phần bằng sa thạch ở nửa phía ngoài các cột
ốp tường và các góc diềm mái. Tại bốn góc ở mỗi tầng của tháp
có các chi tiết bằng đá hình đuôi phượng nhô ra.
Bình Định - Tháp Đơn Long
Tháp Dương Long
|
Tháp
Dương Long còn có tên là tháp Ngà, cách thành phố Quy Nhơn 50km. Tháp được xây
dựng vào cuối thế kỷ 7, gồm 3 tháp, tháp giữa cao 24m, hai tháp hai bên cao
22m. Đây là một trong những cụm tháp đẹp nhất còn lại của
miền Trung Việt
Bình Thuận - Di tích trường Dục
Thanh
Di tích trường Dục Thanh
28/05/2007, 15h46
Vị trí: Thuộc làng
Thành Đức, nay là số 39 đường Trưng Nhị, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.
Đặc điểm: Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở và dạy học
năm 1910 trước lúc Người vào Sài Gòn để ra đi tìm đường cứu nước.
Nhà
thơ, nhà yêu nước Nguyễn Thông đã xây trên một khu đất của xóm chài nghèo một
ngôi nhà gọi là Ngọa Du Sào để đọc sách, ngâm thơ, gặp gỡ và đàm đạo với bạn
thơ, bạn cùng chí hướng yêu nước. Khi Nguyễn Thông qua đời
nhiều chí sĩ nổi tiếng vãn thường lui tới Ngọa Du Sào trong đó có Phan Chu
Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp... Được Phan Chu Trinh gợi ý, con trai của
nhà yêu nước Nguyễn Thông là Nguyễn Quý Anh đã xây dựng tại đây ngôi trường tiểu
học, đặt tên là Dục Thanh với chí hướng giáo dục thanh niên, nâng cao dân trí
cho con em trong vùng và truyền bá tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ.
Năm
1909 Nguyễn Tất Thành (tên Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đó) trên đường vào nam đã
tìm tới nhà yêu nước Trương Gia Mô ở Bình Thuận, người vừa mới được ra khỏi nhà
tù thực dân Pháp. Trương Gia Mô giới thiệu Nguyễn Tất Thành với
Nguyễn Quý Anh lúc đó đang làm hiệu trưởng trường tiểu học Dục Thanh. Số
phận và con đường cách mạng buổi bình minh của cuộc đời đi tìm đường cứu nước
đã đưa Người đến với ngôi trường nhỏ Dục Thanh nằm kín đáo sát con sông Cà Ty để
giờ đây Dục Thanh trở thành một di tích lịch sử mà có lẽ không người Việt Nam
nào không biết tới.
Năm
1910 Nguyễn Tất Thành trở thành thầy giáo trẻ nhất.
Năm đó Người tròn 20 tuổi. Tại đây
Nguyễn Tất Thành đã nhận dạy Quốc Văn, Hán Văn và kiêm nhiệm môn thể dục.
Ngoài ra thầy còn nhận dạy tiếng Pháp khi giáo viên Pháp văn
vắng mặt.
Ngày
nay trong khu trường Dục Thanh còn giữ lại được gần như nguyên vẹn những kỷ vật
cách đây gần ngót thế kỷ. Trong đó có nhà Ngự -
nơi các thầy giáo và học trò ăn ở nội trú; Ngọa Du Sào; cây khế sau vườn - nơi
thầy Thành hay tưới nước cho vườn cây vào những buổi chiều. Khu di tích
trường Dục Thanh đã trở thành một trong những nơi gắn liền với thân thế và sự
nghiệp của chủ tịch Hồ Chí Minh, một con người đã trở thành danh nhân văn hóa
thế giới, vô cùng gần gũi thân yêu đối với mỗi người Việt Nam.
Cinet
Bình Thuận - Nhà Lưu giữ bảo Vật văn
hóa Chăm
Nhà Lưu Giữ Bảo Vật Vương Quốc Chăm
|
Do bà Nguyễn Thị Thềm, hậu duệ của dòng vua Chăm cuối cùng
lưu giữ ở xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình, cách thành phố Phan Thiết khoảng 60 km
(38 miles) về phía Bắc. Bộ sưu tập di sản văn hóa hoàng tộc Chăm bao gồm những
báu vật của vua Po- Klong- Mơl- Nai và một số ít của các vị vua Chăm những thế
kỷ trước. Sưu tập có hơn 100 di vật nguyên gốc quý hiếm đủ
các loại hình và chất liệu khác nhau. Đáng chú ý là những di vật bằng
vàng (vương miện, bông tai, vòng xuyến), vải (áo bào, đôi hia) của vua Po-
Klong - Mơl- Nai và hoàng hậu Sopia Sơm. Bộ sưu tập phản ảnh nghệ thuật của
nghề thủ công mỹ nghệ, điêu khắc, chạm trổ rất phát triển của người Chăm trước
đây.
Nhóm Di Tích Tháp Cổ Pô - Sha – Nư
Còn gọi
là tháp Phú Hải thuộc xã Thanh Hải, thành phố Phan Thiết. Đây là tuyệt tác của dân tộc Chăm để lại cho nhân loại. Nhóm tháp này gồm 3 cây tháp và nhiều tháp đổ khác nay chỉ còn lại
phế tích và nền móng.
Ba ngôi tháp hiện nay còn phân bổ
trên 2 tầng đất, quay mặt về hướng Đông. Tháp vuông nhiều tầng, di tích này thuộc phong cách
nghệ thuật Hòa Lai, có niên đại thếkỷ 8, loại hình tháp Khmer thời Chân Lạp.
Nhóm tháp chàm Pô- Sha- Nư tọa lạc trên một ngọn đồi có tên "Lầu Ông
Hoàng" cách thành phố Phan Thiết 6 km (4 miles) về phía Đông Bắc. Hàng năm
vào tháng giêng âm lịch, các lễ hội Rija Nưga, Poh Mbăng Yang được tổ chức dưới
chân tháp. Nhân dân làm lễ cầu mưa, cầu xin những điều tốt
lành. Bên cạnh khu tháp Po- Sha- Nư là các di tích "Lầu Ông
Hoàng", chùa Bửu Sơn, núi Cố nơi có mộ nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông. Tiếp tục cuộc hành trình dọc bãi biển đến đá ông Địa, biển Mũi
Né... du khách sẽ bị lôi cuốn vào bức tranh giàu hương vị biển mặn mà, độc đáo.
Đền Thờ PoKlong - MơlNai (Huyện Bắc
Bình)
PoKlong - MơlNai, một trong những vị vua cuối cùng của người
Chăm (đầu thếkỷ 17). Đền thờ nằm trên đồi cao cạnh quốc lộ 1A, cách thành phố
Phan Thiết về phía Bắc khoảng 60 km (38 miles) . Trong
đền hiện nay còn lại 3 pho tượng bằng đá màu xanh, đen tạc tượng vua PoKlong-
MơlNai và 2 bà hoàng hậu cùng nhiều tượng Cút được điêu khắc, chạm trổ công
phu, tinh xảo.
Đền Thờ Cố Hỷ Phu Nhân
Ở trên núi Ô Cam, sát bãi biển phía
(Cinet)
Bình Thuận - Đền Thờ Pôklông -Mơh
Nai
Đền thờ Pôklông - Mơh Nai
Nằm trên đỉnh đồi cát thuộc thôn Lương Bình, xã Lương Sơn,
huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận, cách thành phố Phan Thiết khoảng 60km về phía
Bắc. Ðền thờ được xây dựng để thờ vua Chăm Pôklông - Mơh Nai, một trong những
vị vua cuối cùng của Vương quốc Chămpa trước khi Vương quốc này tan rã.
Ðối lập với nền
nghệ thuật và kỹ thuật xây dựng tháp Chăm từ thế kỷ 17 trở về trước, từ thế kỷ
17 trở về những thế kỷ sau khi đất nước bị suy kiệt, nhân tài vật lực và kỹ thuật
bị thất truyền mà việc thờ phụng tổ tiên và tôn giáo vẫn là nhu cầu thường trực
nên người Chăm chuyển sang xây dựng dạng kiến trúc đền thờ như một ngôi chùa
đương thời và sử dụng vật liệu gỗ, ngói, vôi như người Việt. Tiêu
biểu cho dạng kiến trúc này là đền thờ vua Chăm Pôklông - Mơh Nai.
Ðền thờ gồm có 5
gian thờ xây dựng theo hình chữ T. Dãy nhà 3 gian dùng để thờ phụng: gian giữa
thờ tượng vua Pôklông - Mơh Nai; gian bên phải thờ tượng bà thứ phi người Việt,
công chúa con của một vị chúa Nguyễn, cùng một số tượng Kút con của bà; bên
trái là gian thờ hoàng hậu Popia Sơm, vợ cả của vua, cùng một số tượng Kút chạm
khắc đẹp là con của bà. Dãy nhà trước gồm 2 gian lớn để trống
dùng làm nơi chờ đợi và thực hiện nghi lễ bên ngoài trước lúc vào đền thờ.
Tượng
vua Pôklông - Mơh Nai được các nghệ nhân Chăm tạc bằng một khối đá xanh xám với
nghệ thuật điêu khắc tinh tế. Pho
tượng tả cảnh nhà vua đang ngự ở triều đình, đầu đội vương miện oai nghiêm.
Ðây là một trong những pho tượng Chăm có kích thước lớn còn tồn
tại nguyên vẹn đến ngày nay.
Hàng
năm gia đình, dòng tộc hậu duệ nhà vua cùng đồng bào Chăm tổ chức nhiều nghi lễ
tại đền thờ. Lớn nhất là dịp lễ hội
Katê tổ chức vào tháng 7 Chăm lịch. Vào dịp lễ hội này
tượng vua được đội vương miện thật bằng vàng, mặc áo đại lễ. Tượng hoàng hậu và thứ phi cũng được tắm rửa mặc áo, đội mũ.
Ðền
thờ Vua Chăm Pôklông - Mơh Nai đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử - nghệ
thuật cấp Quốc gia vào năm 1991.
(Cinet)
Cao Bằng - Di tích Pắc Bó
Di tích Pắc Bó
28/05/2007, 15h59
|
|
|
Vị trí: Di tích Pắc Bó
thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, cách Tx. Cao Bằng 55km về
phía bắc.
Đặc điểm: Pắc Bó là di tích cách mạng nổi tiếng, nơi Bác
Hồ làm việc và trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt
Pắc
Bó có hang Cốc Bó được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm nơi ở sau hơn 30 năm bôn
ba ở nước ngoài trở về Tổ quốc (08/02/1941) để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt
Các
di tích ở khu này gồm có:
-
Hang Bo Bam, bãi Cò Rạc, Hang Cốc Bó
-
Suối Lê-nin, núi Các Mác.
-
Suối Nậm: Nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp huấn luyện cán bộ và tổ chức nhiều
cuộc họp quan trọng của Trung ương.
Ði
trên những tảng đá nhám rêu phong dọc bờ suối là nơi Bác Hồ thường ngồi làm việc
và câu cá sẽ đến một chiếc cầu gỗ bắc ngang cửa khe Cốc Bó.
Ðây là nơi khởi nguồn của suối Lê-nin. Hang Pắc Bó hiện
ra bên sườn núi đá lởm chởm. Ðứng ngoài cửa hang nhìn xuống, trên vách đá tranh
tối tranh sáng còn thấy được dòng chữ của Người: "Ngày 8 tháng 2 năm
1941". Ðấy là ngày Bác đến ở hang này, một cái hang nhỏ, ẩm và lạnh, nằm
sâu trong khe núi, chẳng mấy ai để ý tới.
Phía
trước cửa hang Pắc Bó khoảng 1.000m, có một lán nhỏ bên sườn núi Khuổi Nậm. Nơi
đây Bác Hồ triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ Tám, ra nghị quyết chuẩn bị vũ
trang khởi nghĩa, thành lập Việt Minh và Chiến khu cách mạng. Cách cái lán nhỏ này vài bước chân là đường biên giới Việt Trung -
cột mốc 108. Nơi đây, Bác Hồ đã cúi xuống ôm hôn mảnh
đất Tổ quốc thân thương sau bao năm xa cách. Khi đó Bác đã 50 tuổi, mái
tóc đã pha sương.
Thăm
khu di tích lịch sử này, du khách hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để rồi trong ký ức họ sống
mãi những vần thơ lạc quan cách mạng của Người:
"Sáng
ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ
rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá
chông chênh dịch sử Ðảng
Cuộc đời
cách mạng thật là sang".
Cinet
Cần Thơ - Di tích chùa Ông
Di tích Chùa ông
Tọa lạc trên đường Hai Bà Trưng, nhìn ra bến Ninh Kiều là
Chùa Ông do người Hoa thuộc hai Phủ Quảng Châu, Triệu Khánh (Quảng Đông - Trung
Quốc) góp công xây dựng vào những năm 1894 - 1896. Hầu hết vật liệu xây dựng
quan trọng liên quan đến diện mại kiến trúc đều đưa từ Quảng Đông sang.
107
năm trôi qua, Chùa Ông ở Cần Thơ vẫn trong tình trạng hoàn hảo từ hình dáng bên
ngoài đến trạm trổ nội điện. Trong chùa, gian chánh
điện thờ Quan Công, bên phải thờ Thổ Địa, Thiên Hậu Thánh Mẫu; bên trái thờ Đổng
Vĩnh Trạng nguyên, Tài Bạch Tinh Quân (Thần Tài)... Hàng năm, cứ vào ngày 24
tháng 6 âm lịch, các vị cao tuổi trong Ban trị sự chùa cùng đông đảo người Hoa ở
địa phương tổ chức lễ vía Ông, còn gọi là lễ vía Quan Thánh Đế. Chùa Ông được đồng
bào người Hoa, người Kinh thường xuyên đến viếng.
Ngày
Tết là một sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo quan trọng, là những này lễ hội lớn nhất
trong năm. Tùy theo điều
kiện kinh tế mà trong những ngày này đồng bào Hoa mang đến chùa heo quay, heo sống,
gà vịt, bánh trái, nhang đèn... Họ sửa sang trang hoàng lại chùa, tắm gội và ăn mặc thật đẹp đẽ cùng nhau đốt cho các vị thần những nén
hương với tất cả sự trong sạch và tinh khiết của thể xác và tâm hồn. Thỉnh thoảng có những năm Ban quản trị còn tổ chức sinh hoạt lễ hội
dân gian truyền thống như múa lân, rồng, sư tử, thi đấu võ thuật, biểu diễn nghệ
thuật sân khấu Quảng Triều.
Nhìn
về mặt tôn giáo, tín ngưỡng của chùa Ông cũng như một số chùa Hoa khác ta thấy
một đặc điểm đáng lưu ý là phần tín ngưỡng có vẻ nổi bật hơn tôn giáo.
Tất cả Chùa Ông
do người Hoa cất ở Việt
(Cinet)
Đà Nẵng - Di tích K20
Di tích K20
28/05/2007, 16h39
Vị trí:
Khu di tích nằm trên địa bàn khối phố Đa Mặn, phường Bắc Mỹ An, quận Ngũ Hành
Sơn, trên tuyến đường từ trung tâm thành phố đến khu danh thắng Ngũ Hành Sơn và
phố cổ Hội An.
Đặc điểm:
Với hơn 3 nghìn dân, rộng 3km², K20 là một trong những căn cứ cách mạng quan trọng
của thành phố Đà Nẵng trong chiến tranh.
Khu
Di tích lịch sử cách mạng K20 là tên gọi do Quận ủy Quận III đặt để làm mật hiệu
liên lạc thời chống Mỹ. Sau khi chiếm giữ Đà Nẵng năm 1954, Mỹ Ngụy đã xây dựng
nhiều đồn bót quanh Đa Mặn, hình thành bộ máy kìm kẹp nhân dân, ngăn cản lực lượng
cách mạng ngay từ bên ngoài vào thành phố. Chính trong điều kiện đó chủ nghĩa anh
hùng cách mạng của quân dân Đa Mặn đã được phát huy cao độ, trở thành bài học
quý báu cho phong trào cách mạng địa phương. Trong đó, nhiều
sự kiện, cột mốc lịch sử vẫn còn được lưu truyền sinh động trong nhân dân và đi
vào sử sách. Đáng kể là sự kiện năm 1962, nơi đây đã tổ chức được lực lượng
du kích mạnh, làm nhiệm vụ “diệt ác phá kìm”, đến năm 1964 phát triển tới 27 đội
viên, tiêu diệt 12 tên ác ôn, phá hủy nhiều ấp chiến lược... Hầu hết các gia
đình ở Đa Mặn thời đó đều có hầm bí mật để nuôi giấu cán bộ.Nhà truyền thống được
xây dựng khang trang, hiện đang lưu giữ tương đối đầy đủ các hiện vật của một
thời đấu tranh ngoan cường, bất khuất. Những địa chỉ đỏ, hầm
bí mật, chiến hào xưa đang được đưa vào các chương trình tham quan, giáo dục
truyền thống. Mỗi hiện vật, mỗi sự tích đều gắn liền
những con người có thật, trong đó có người đang còn sống, đang xây dựng cuộc sống
mới ngay tại mảnh đất lịch sử này.
Cinet
Đà Nẵng - Đình Hải Châu
Đình Hải Châu
|
Đình
làng Hải Châu nằm tại kiệt 42, tổ 6, đường Phan Chu Trinh, phường Hải Châu 1,
quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Phía trước đình có hồ nước lớn, ở giữa sừng sững
hòn non bộ rợp bóng cây bồ đề trên dưới trăm tuổi. Trên cổng Tam Quan vẫn còn
rõ tên Hải Châu Chánh Xã bằng chữ Hán. Qua khoảng sân rộng là một quần
thể kiến trúc chính gồm: Đình Hải Châu, Nhà thờ Tiền Hiền nằm giữa hai nhà thờ
tộc thành hình chữ “nhất”. Nhà thờ bên trái của tộc Nguyễn Văn mới tách ra, còn
nhà thờ bên phải gọi là Kinh An Tự thờ chung 42 bài vị
của 42 tộc họ. 42 tộc họ này đều từ thôn Hiếu Hiền, xã Hải Châu, huyện Ngọc
Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa, theo vua Lê Thánh Tôn vào nam từ năm Tân Mão
(1471). Vua Lê đã lập ra ấp Hàn Giang (sau là tỉnh Quảng Nam, nay là thành phố
Đà Nẵng) và các tộc họ ấy đã quần tụ lại thành làng Hải Châu (theo tên xã cũ ở
Thanh Hóa, bao gồm phần nội thành Đà Nẵng hiện nay), được triều Nguyễn phong sắc
phong “chánh xã”. Hơn 500 năm qua các tộc họ đầu tiên ấy đã đặt
nền móng và không ngừng đóng góp công sức cho sự hình thành thành phố Đà Nẵng
hiện nay.
Trên
gác chuông đình Hải Châu hiện còn 1 chiếc chuông đồng, thân chuông có bài minh
đắp nổi bằng chữ Hán. Tạm dịch: năm Minh Mạng thứ 5
(Giáp Thân - 1842) trùng tu chùa. Năm sau (1825) vua ban chỉ sắc tứ cho mang
tên “Chùa Phước Hải”. Năm Minh Mạng thứ 13 (Nhâm Thìn - 1832)
nhằm ngày tốt, xã Hải Châu Chánh Đồng tạo lập chuông này. Các nhà sử học
xác định Đình Hải Châu là Chùa Phước Hải, nơi Chúa Nguyễn Phúc Chu năm Kỷ Hợi -
1719 đã vào Quảng Nam và nghỉ lại, sau đó dân đã lập bàn thờ ông tại đây.
Đình
làng Hải Châu được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử quốc gia
vào ngày
(Cinet)
Đà Nẵng - Đình Bồ Bản
Đình Bồ Bản
|
Đình Bồ Bản hiện ở tại thôn Bồ Bản, xã Hòa Phong, huyện Hòa
Vang, thành phố Đà Nẵng: Đình được xây dựng vào những năm đầu của thế kỷ 19
bằng thanh tre tại gò miếu Tam Vị.
Đình
Bồ Bản lập ra để thờ Thành hoàng, các vị tiền hiền của làng và là nơi sinh hoạt
lễ hội hằng năm. Năm 1852, đình được dời
về trung tâm làng.
Với
tường xây gạch, mái lợp ngói âm dương, đình được chia làm 3 gian; 2 chái; dài
14,5m; rộng 9,7m; có 36 cột bằng gỗ mít và kiền kiền. Kết cấu kèo, cột cũng được
thể hiện theo lối chồng rường giả thủ, đầu các trính
chạm đầu rồng, các vì kèo chạm mai, trúc, tùng, lan. Ngoài ra, còn có các loài
chim, thú như chim sẻ, khỉ (hầu) và các họa tiết hoa văn, được khắc
|
chạm
tinh tế, khéo léo và tỉ mỉ, tạo nên những tác phẩm điêu khắc độc đáo, giàu tính
nghệ thuật, có giá trị khoa học.
Đình
đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa ngày
(Cinet)
Đà Nẵng - Đình Nại Nam
Đình Nại Nam
|
Đình làng Nại Nam nay ở khối phố Nam Sơn, phường Hòa Cường,
quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Di tích đình Nại Nam, ngoài giá trị của một
di tích kiến trúc - nghệ thuật còn là một trong những đình làng cổ tiêu biểu khá
nguyên vẹn còn lại trong nội thành Đà Nẵng.
Đình được xây dựng năm Ất Tỵ (1905) từ công sức
đóng góp của dân địa phương, thờ Thành hoàng bảo an chính trực, bổn xứ thổ thần
và các vị tiền nhân của làng.
Đình ghi đậm dấu ấn văn hóa thời Nguyễn, mái lợp ngói âm dương, tường gạch, trên mái đình là lưỡng long chầu nguyệt, loan phụng hòa vinh, dơi ngậm đào, thể hiện qua nghệ thuật đắp ghép sành sứ, công phu, đẹp mắt. Bên trong chia làm 3 gian, 2 chái, phần chính diện dài 11,7m, rộng 7,9m, hậu tẩm rộng 3,9m, dài 4,1m. Có 4 hàng cột gồm 20 cột bằng gỗ mít, có chiều cao từ 2,5m - 4,5m. Kết cấu kèo theo “chồng rường - giả thủ”. Phần đầu hồi chạm trổ khéo léo và tinh xảo qua bàn tay tài hoa của thợ chạm Kim Bồng (Hội An), thể hiện các đề tài: cá chép hóa long, bát bảo đạo nho, cùng các họa tiết hoa văn cây cỏ, hoa lá.
Hằng năm có lễ cầu
an tại đình vào rằm tháng 2 âm lịch và ngày lễ cuối
năm (30 Tết). Đình làng Nại
(Cinet)
Đà Nẵng - Mộ Ông Ích Khiêm
Mộ Ông Ich Khiêm
|
Toạ lạc tại nghĩa trang xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang, thành
phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố 10km về phía Tây - Nam. Mộ Ông Ích Khiêm được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích
quốc gia vào ngày 12/7/2001.
Ông
Ích Khiêm, tự là Mục Chi, sinh ngày
Ông
Ích Khiêm mất ngày 19/ 7/ 1884 tại Bình Thuận.
Con trai ông là Ông Ích Thiện đã đưa thi hài ông về quê và mai táng tại làng
Phong Lệ. Ngôi mộ được xây theo hình bát giác, có chiều
dài từ cổng vào là 13,8m; chiều rộng 6,1m; tường bao xung quanh mộ cao 0,72m. Nấm mộ có chiều dài 4,75m; rộng 3,5m; cao 0,35m. Phía trước
mộ có nhà bia, bên trong đặt một tấm bia bằng đá cẩm
thạch cao 0,83m; rộng 0,54m được trang trí hình rồng, phụng và hoa lá.
(Cinet)
Đà Nẵng - Thành Điện Hải
Thành Điện Hải
28/05/2007, 16h47
Vị trí: Di tích thành
Điện Hải tọa lạc tại phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Đặc điểm: Thành Điện Hải là một dấu ấn ghi nhớ truyền
thống đấu tranh chống Pháp của nhân dân Đà Nẵng và nhân dân cả nước, quyết tâm
giữ vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ lãnh thổ.
Thành Điện Hải trước là đồn Điện Hải, xây dựng năm 1813 (Gia Long thứ 12) gần cửa
biển Đà Nẵng. Năm 1823 (Minh Mạng thứ 4) cho dời đồn Điện Hải vào bên trong đất
liền, trên một gò đất cao và đến năm 1835 (Minh Mạng thứ 15) đồn được đổi tên
là thành Điện Hải.
Năm
1840, Tham tri Bộ công Nguyễn Công Trứ vào xem xét hệ thống phòng thủ ở Đà Nẵng,
sau đó có đề nghị tăng cường phòng thủ các thành Điện Hải, An Hải.
Năm 1847 (Thiệu Trị thứ 7), thành Điện Hải được mở rộng có chu vi 556m, thành
cao hơn 5m, chung quanh là hào sâu 3m. Thành có 2 cửa, một cửa
mở về phía nam (cửa chính), một cửa mở về phía đông. Trong thành có hành
cung, có kỳ đài, các cơ sở chứa lương thực, đạn dược, thuốc súng và được trang
bị 30 ụ súng đại bác cỡ lớn. Thành xây bằng gạch theo
đề án thiết kế kiểu Vauban, hình vuông.
Hiện nay, tường thành phía tây, đông và các góc tương đối còn
nguyên vẹn còn cửa thành phía nam đã mất và phía bắc đã hư hại. Gần đây, di tích thành Điện Hải được trùng tu, gia cố, phục hồi lại
nguyên trạng. Một tượng đài uy nghi của Tướng quân Nguyễn Tri Phương đã
được dựng tại đây, để ghi nhớ một giai đoạn lịch sử hào hùng của thành phố.Thành
Điện Hải là đồn lũy quan trọng góp phần đánh bại cuộc tấn công của thực dân Pháp
vào Đà Nẵng những năm 1858 - 1860. Ngày 16/11/1988 thành đã được Bộ Văn hóa -
Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia và được gắn bia
di tích ngày 25/8/1998.
Cinet
Đăk Lăk - Ngã sáu Buôn Ma Thuột
Ngã sáu Buôn Ma Thuột
31/05/2007, 10h27
Vị trí:
Thuộc thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Đặc điểm:
Ngã sáu Buôn Ma Thuột khá thân quen với tên gọi "Ngã sáu Ban Mê" đầy
chất thơ, nhạc, không ngừng biến đổi qua thời gian, ghi nhận những thăng trầm của
lịch sử khai phá vùng đất cao nguyên Buôn Ma Thuột.
Người
Buôn Ma Thuột những năm đầu thế kỷ 20 đã chọn cho mình một địa thế khá bằng phẳng
để khai khẩn và lập nghiệp. Ngã sáu Buôn Ma Thuột,
nơi giao lộ của những con đường đi lại giữa khu dân cư người Kinh với các buôn
làng Ê Đê bản địa và đường về miền trung châu. Con đường xưa đất đỏ, quanh năm
lầy lội vào mùa mưa và bụi đỏ về mùa khô, rồi đường được lát đá, bây giờ là đường
rải nhựa phẳng lỳ thênh thang. Ngã sáu Buôn Ma Thuột đã có một bộ mặt bề thế
mang dáng dấp của một phố thị trẻ, tựa như gương mặt một cô gái ở độ tuổi mới lớn,
với quần thể kiến trúc bao quanh như đài tưởng niệm, khách sạn, trung tâm văn
hóa, những cơ sở dịch vụ tổng hợp, Công ty Du lịch Đắk Lắk, Đài phát thanh truyền
hình...
Cinet
Đăk Lăk - Nhà đày Buôn Ma Thuột
Nhà đày Buôn Ma Thuột
29/05/2007, 08h11
|
|
Vị trí: Nhà đày Buôn Ma
Thuột nằm ở Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Đặc điểm: Nhà đày Buôn Ma Thuột không những là chứng
tích về tội ác của bọn Đế quốc - thực dân mà nó còn là trường học lớn đào tạo
và rèn luyện nên những chiến sĩ cách mạng kiên cường của cách mạng Việt
Chắc
có lẽ nhiều bạn trẻ ngạc nhiên khi được nghe kể lại rằng thành phố Buôn Ma Thuột
sôi động hôm nay, cách đây hơn 50 năm là những cánh rừng hoang vu, mênh mông phủ
kín, dân cư thưa thớt, nơi đây xưa kia được coi là chốn rừng thiêng nước độc,
người đồng bằng ít dám mơ tưởng đặt chân lên chốn này.
Thế
nhưng cũng cùng thời gian ấy, ở đây đã có một nhà đày (một trong những khu biệt
giam tù chính trị) với chế độ tàn bạo nhất của bọn thực dân Pháp ở nước ta.
Đến Buôn Ma Thuột tìm hiểu về mảnh đất - con người, không thể
không đến thăm khu di tích lịch sử cách mạng đã được Nhà nước xếp hạng này.
Tại
đây, các bạn sẽ được thấy, được nghe, được biết thêm nhiều điều mới lạ về truyền
thống đấu tranh oanh liệt của những chiến sĩ cộng sản thuở trước như: Hồ Tùng Mậu,
Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, Hồng Chương, Bùi San, Trần Văn Quang,
Ngô Đức Đệ, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Phụng Tân, Huỳnh Thanh... và biết bao nhiều
người con ưu tú của mọi miền Tổ quốc.
Nhà
đày Buôn Ma Thuột có vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc vận động cách mạng
Tháng Tám ở Đắk Lắk. Những chiến sĩ cộng sản bị địch giam cầm ở đây đã trở
thành những người gieo hạt mầm cách mạng vào mảnh đất cao nguyên đất đỏ này.
Được
mở rộng và xây dựng kiên cố thêm trên cơ sở của một Prison (nhà lao) có từ năm 1900 đến năm 1930, nhà lao Buôn Ma Thuột trở
thành nơi đày ải những chiến sĩ yêu nước Việt
Năm
tháng đã qua đi, nhưng những dấu ấn ấy như còn in rõ vào tâm trí của mỗi người.
Khi đặt chân đến đây, nhìn lại những chiếc cùm các bạn cũng sẽ thấy đau lòng, bồi
hồi xúc động và càng khâm phục những chiến sĩ cộng sản kiên cường không sợ hy
sinh, quyết tâm chiến đấu và đã chiến thắng kẻ thù góp phần giải phóng dân tộc
thoát khỏi đêm mờ nô lệ. Những ai đã qua khỏi nhà đày Buôn Ma Thuột còn sống
sau này đều trở thành hạt nhân của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và
đóng góp nhiều công sức suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ. Nhà đày Buôn Ma Thuột được công nhận là di tích lịch sử vào năm 1980.
Cinet
Điện Biên - Khu di tích chiến thắng
Điện Biên Phủ
Khu di tích chiến thắng Điện Biên
Phủ
29/05/2007, 08h21
|
|
Vị trí: Chiến trường Điện
Biên Phủ thuộc tỉnh Điện Biên, cách Tp. Hà Nội khoảng 500km về phía tây.
Đặc điểm: Chiến trường Ðiện Biên
là một di tích lịch sử ghi lại chiến công oanh liệt của quân và dân Việt
Từ
Hà Nội theo quốc lộ 6 qua Sơn La, Thuận Châu, vượt đèo Pha Ðin sang Tuần Giáo rồi
rẽ theo quốc lộ 279 vào Ðiện Biên. Thung lũng Ðiện Biên bốn bề là núi bao bọc với
nhiều ngọn đồi ở phía đông và cánh đồng Mường Thanh dài 20km, rộng 6km, có sông
Nậm Rốn chảy qua nên vùng đất Ðiện Biên này rất màu mỡ. Từ cuối năm 1953 thực
dân Pháp đã đổ quân chiếm đóng Ðiện Biên và thành lập ở đây một tập đoàn cứ điểm
quân sự mạnh được trang bị nhiều vũ khí hiện đại.
Tại
thung lũng Ðiện Biên đã diễn ra cuộc chiến đấu cực kỳ anh dũng của quân dân Việt
Nam suốt 55 ngày đêm với đội quân viễn chinh xâm lược của thực dân Pháp
(13/3/1954 - 7/5/1954), bắt sống tướng Ðờ Catri (De Castries) và toàn bộ ban chỉ
huy, loại khỏi vòng chiến đấu 16.000 quân địch. Chiến thắng
Ðiện Biên Phủ đã gây một tiếng vang lớn chấn động địa cầu, khắp năm châu đều biết
đến Ðiện Biên Phủ - Việt
Các di tích nổi bật của chiến trường Ðiện Biên
năm xưa là đồi A1, C1, C2, D1, cứ điểm Hồng Cúm, Him Lam, đồi Ðộc Lập, cầu và
sân bay Mường Thanh, hầm chỉ huy của tướng Ðờ Catri.
Quần
thể di tích Sở chỉ huy Chiến dịch ở xã Mường Phăng, cách Tp. Ðiện Biên Phủ
gần 30km, bên cạnh khu du lịch hồ Pá Khoang cảnh đẹp như trong thần thoại.
Nối hai lán làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tham mưu trưởng Hoàng
Văn Thái là một đường hầm dài 96m, đào xuyên qua đồi để tránh bom và đạn đại
pháo. Những bậc cấp dẫn lên miệng hầm (cũng là lán của Đại
tướng) nay đã phủ rêu phong của thời gian.
Ðiện
Biên Phủ từ xưa vừa là nơi giao lưu văn hóa và kinh tế của các dân tộc vùng
biên ải Việt - Lào - Hoa và vừa là vùng tranh chấp thế lực giữa các lãnh chúa
phong kiến. Trong nhiều thế kỷ,
chiến tranh đã bao lần diễn ra trên cánh đồng Mường Thanh. Mãi đến năm 1777, phủ Ðiện Biên mới chính thức được thành lập, cuộc
sống yên bình trở lại, dân cư bắt đầu tụ tập, ổn định và xây dựng cuộc sống.
Do vị trí địa lý độc đáo, nơi "một tiếng gà gáy ba nước đều nghe thấy",
trong vùng lòng chảo khá phồn thịnh, nơi buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa bản địa,
người Lào, người
Cinet
Đồng Nai - Khu di tích lịch sử chiến
khu Đ là điểm Du lịch của Đồng Nai
Khu di tích lịch sử chiến khu Đ là
điểm du lịch Đồng Nai
|
Một tour du lịch nối kết nhiều điểm
đến của Đồng Nai gồm làng bưởi Tân Triều - di tích lịch sử chiến khu Đ - làng
dân tộc Phú Lý đang được Sở Thương mại - du lịch xúc tiến xây dựng. Trong đó, di tích lịch sử Chiến khu Đ được xem là một điểm nhấn
quan trọng cho toàn tuyến.
Khi
bắt tay xây dựng tuyến du lịch này, Sở Thương mại - du
lịch đã xác định đây sẽ là một tour du lịch về nguồn kết hợp với du lịch sinh
thái, dã ngoại. Khu di tích lịch sử Chiến khu Đ không chỉ có
ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ mà còn mang trong mình tiềm
năng rất lớn cho khai thác và phát triển du lịch. Hơn nữa, việc đưa Chiến
khu Đ thành điểm du lịch quen thuộc cũng nhằm phục vụ cho công tác tuyên truyền,
giáo dục thế hệ trẻ và thu hút khách đến tham quan, học tập, nghiên cứu, qua đó
hiểu rõ hơn về ý nghĩa lịch sử, tinh thần yêu nước và đấu tranh của quân và dân
miền Đông Nam bộ.
Để
di tích lịch sử Chiến khu Đ thành điểm đến du lịch hấp dẫn, ngành du lịch đã dự
kiến tổ chức một số hoạt động như: tái hiện lại cuộc sống của người chiến sĩ giải
phóng năm xưa trong chiến khu (du khách ngủ võng giữa rừng, thổi cơm bằng
bếp Hoàng Cầm); thăm làng dân tộc của đồng bào Chơ Ro bản địa (du khách được ăn
cơm lam, uống rượu cần và múa hát cùng đồng bào); tham quan Khu bảo tồn thiên
nhiên Vĩnh Cửu; các trò chơi tập thể, trò chơi dân gian; tổ chức ăn nghỉ cho du
khách, bán hàng lưu niệm đặc trưng (khăn rằn, nón tai bèo)... Việc đẩy mạnh
tuyên truyền, quảng bá cho tour du lịch về nguồn với Chiến khu Đ lịch sử trong
năm 2006 cũng đã được ngành du lịch dự thảo kế hoạch trình UBND tỉnh. Trước mắt,
ngành sẽ lập một website với nhiều nội dung tuyên truyền, quảng bá; phối hợp
cùng các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài tỉnh thực hiện những
chương trình giới thiệu về du lịch Chiến khu Đ... Công ty du
lịch Đồng Nai chịu trách nhiệm khai thác tuyến du lịch này cũng như thiết kế
các tour có nối với điểm di tích Chiến khu Đ.
Kế
hoạch là vậy, nhưng để tuyến du lịch này đi vào hiện thực thì vẫn còn rất nhiều
những khó khăn đối với ngành du lịch tỉnh lẫn Ban quản lý khu di tích lịch sử
Chiến khu Đ. Các đoàn và khách tham quan tự do trước nay chỉ đến tìm hiểu di
tích, được hướng dẫn, thuyết minh rồi...về, tất cả chỉ trong nửa ngày. Dù khách
đã vất vả đường xa đến đây nhưng khu di tích vẫn chưa có hoạt động nào để
"giữ chân" du khách giống như Khu di tích địa đạo Củ Chi (TP. Hồ Chí
Minh). Hiện tại, khu di tích gần như chưa có cơ sở phục vụ lưu trú, ăn nghỉ, vui chơi nào cho du khách. Hệ thống
các biển định danh cho các loài cây thuộc Khu dự trữ thiên nhiên Vĩnh Cửu đến
nay vẫn chưa làm. Vì vậy, nếu được đưa vào khai thác
du lịch, khu di tích hiện mới chỉ có thể là một điểm dừng chân trong tour về Đồng
Nai của du khách. Để Chiến khu Đ thành điểm du lịch về nguồn kết hợp du
lịch sinh thái có sức giữ chân du khách ở lại vài ngày có lẽ còn phải chờ vào
tiến độ quy hoạch và thực hiện quy hoạch của một dự án lớn hơn: dự án Trung tâm
văn hóa - lịch sử Chiến khu Đ. Thế nhưng, việc từng bước đưa vào thêm một số sản
phẩm du lịch để khu di tích vốn đã hấp dẫn khách du lịch lại càng hấp dẫn hơn vẫn
là một việc làm hoàn toàn khả thi đối với ngành du lịch mà không phải nằm chờ
vào quy hoạch.
(Cinet)
Đồng Nai - Đền thờ Nguyễn Tri Phương
Đền Thờ Nguyễn Tri Phương
Tọa lạc tại phường Bửu Hòa, Biên Hòa, đền được xây dựng vào
khoảng đầu thế kỷ 19 để thờ Trần Thành Hoàng của dân địa phương. Đến năm 1873, khi Nguyễn Tri Phương mất được nhân dân tạc tượng thờ
tại đây. Đền có kiến trúc theo kiểu chữ
"Công" nằm bên hửu ngạn sông Đồng Nai. Đền được Bộ
Văn Hóa công nhận là di tích lịch sử văn hóa năm 1991.
Đền Thờ Nguyễn Hửu Cảnh
Đền được xây dựng cách đây khoảng 300 năm, là công trình kiến
trúc cổ để tưởng niệm ông Nguyễn Hửu Cảnh, người đầu tiên có công khai phá đất
Đồng Nai. Đền thờ được dựng bên sông Đồng Nai, mặt tiền soi
bóng xuống dòng sông thơ mộng. Đền được trùng tu nhiều
lần. Triều Nguyễn trùng tu hai lần, Gia Long năm thứ
nhất và năm 1851. Năm 1960 đền được trùng tu lại.
Đình Tân Lân
Thuộc phường Hòa Bình, thành phố Biên
Hòa. Đền được xây
dựng thời vua Minh Mạng (1820 -1840), nơi thờ Trần Biên đô đốc tổng quân trần
Thượng Xuyên, là người có công mở mang nông Đại Phố (phố Nông Nại ở thành phố
Biên Hòa). Đình Tân Lân là công trình tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc thời
Nguyễn Hòa với nghệ thuật kiến trúc đặc trưng của vùng Hoa Nam (Trung Quốc) với
các tác phẩm điêu khắc đá, chạm khắc gỗ, phù điêu ghép sành, cẩn xà cừ, tượng sành
Hoa Nam... trong đó ẩn chứa những triết lý nhân sinh sâu sắc.
Đình An Hòa
Được xây dựng khoảng năm 1788, 1792,
và đã được trùng tu 3
lần vào các năm 1944, 1953, 1994. Đình An Hòa là di tích kiến trúc nghệ thuật của xã An Hòa, huyện Long Thành. Đình có kiến
trúc chữ "Công". Trong đình còn lưu giữ sắc phong của vua Tự
Đức, và nhiều Hoành Phi, câu đối từ các đời Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức.
(Cinet)
Đồng Nai - Mô cổ hàng Gòn
Mộ Cổ Hàng Gòn
|
Là một di tích văn hóa đã được xếp
hạng tiêu biểu cho nền văn hóa cổ đại xuất hiện cách đây khoảng hơn 2.500 năm. Mộ cổ Hàng
Gòn do ông Bouchtj một kỹ sư cầu đường người Pháp phát hiện vào năm 1927 khi mở
đường liên tỉnh số 2 nối Long Khánh và Bà Rịa. Mộ cổ Hàng Gòn nằm ở độ cao 250m
về phía tây tỉnh lộ 2 (Long Khánh đi Bà Rịa), cách thành phố Biên Hoà 80km,
thuộc xã Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
Mộ có kiến trúc gồm hai hàng trụ đá
bao quanh hầm mộ.
Có 10 trụ đá cao từ 2,5 đến 3 m (7.5 đến 9 ft). Hầm mộ
có dạng hình hộp kích thước 4,2 x 2,7 và cao 1,6 m
(4.8 ft). Nét đặc biệt của ngôi mộ cổ là được ghép bởi những
tấm đá hoa cương nặng hàng tấn, riêng nắp mộ ước tính khoảng 10 tấn. Có nhiều phiến đá bằng phẳng, xếp
cân đối, tinh vi, khoa học, biểu trưng cho nền văn
minh của người xưa. Ngôi mộ này là một trong những di tích
tiêu biểu cho loại hình "DolMen" ở Đông Nam Á.
Từ năm 1992, mộ cổ Hàng Gòn được
trùng tu và xây tường bảo vệ, lát gạch quanh hầm mộ để chống xói mòn và trồng
nhiều cây cảnh xung quanh. Đây là ngôi mộ cổ nhất và quy mô nhất tại
Việt
(Cinet)
Đồng Nai - Chùa Long Thiền
Di tích Chùa Long Thiền
|
Chùa tọa lạc ở số K2/3B Tân Bình,
phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Được xây
dựng vào năm 1664 là một trong ba ngôi chùa có niên đại sớm nhất ở Đồng Nai, và
được trùng tu nhiều lần vào các năm: 1748, 1842, 1952 và đầu thập niên 1990.
Chùa
là công trình kiến trúc tôn giáo theo kiểu chữ
"Tam", chạm trổ công phu, ở điện Phật có nhiều pho tượng cổ bằng đất
nung và bằng đồng. Chùa Long Thiền là nơi truyền bá Phật giáo
đầu tiên ở miền
|
Trụ
trì chùa hiện nay là Hòa thượng Thích Huệ Thành, nguyên Tăng Thống Phật giáo Cổ
truyền Việt Nam, hiện là phó Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đã trùng kiến
ngôi chùa vào năm 1956 và những năm gần đây. Chùa đặt văn
phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Đồng Nai. Chùa đã được
Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
(Cinet)
Đồng Nai - Chùa Đại Giác
Chùa Đại Giác
Chùa
tọa lạc ở xã Hiệp Hòa, thành phố Biên hòa, tỉnh Đồng Nai, trong vùng đất cổ cù
lao Phố. Chùa được dựng từ cuối thế kỷ XVII. Công chúa Ngọc Anh, con thứ ba của
Nguyễn Vương đã xin xuất gia thọ giới với Thiền sư Mật Hoằng.
|
Chùa
Đại Giác |
Đầu
thế kỷ XIX, Nguyễn Vương cho trùng kiến ngôi chùa, xây lầu chuông, lầu trống, tạc
pho tượng Di-đà cao 2,25m. Chùa còn bảo tồn nhiều
tượng cổ và tấm hoành phi sơn son thếp vàng ghi "Đại Giác Tự" do Công
chúa Ngọc Anh cúng vào năm 1820. Chùa được đại trùng tu vào
năm 1959.
Chùa
đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
(Cinet)
Đồng Tháp - Khu di tích Cụ Phó bảng
Nguyễn Sinh Sắc
Khu di tích Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh
Sắc
29/05/2007, 08h47
|
|
Vị trí: Khu di tích Cụ
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc nằm ở thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Đặc điểm: Ðây là công trình ghi ơn cụ Phó bảng Nguyễn
Sinh Sắc, nhà nho yêu nước và là thân phụ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Khu
di tích cụ Nguyễn Sinh Sắc là một quần thể kiến trúc văn hoá hấp dẫn ở tỉnh
Đồng Tháp, được Bộ Văn hoá -Thông tin xếp hạng ngày 09/4/1992.
Toàn
bộ khu di tích rộng 3,6ha, chia làm hai cụm kiến trúc: mộ và nhà lưu niệm cụ
Phó bảng; nhà sàn và ao cá Bác Hồ, mô phỏng nơi ở và làm việc của Bác ở Hà Nội. Đối diện với cổng
vào là lăng mộ cụ Phó bảng, mái hình bàn
tay úp, phía trên mái là chín con rồng - biểu tượng của các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long. tại khu di tích có rất nhiều cây cảnh, hoa quý được nhân
dân hiến tặng hoặc đưa về từ nhiều miền của đất nước, trong đó đặc biệt là
cây khế gần 300 tuổi (nằm bên trái mộ) và cây sộp hơn 300 tuổi (nằm bên phải mộ).
Trong nhà lưu niệm trưng bày nhiều hiện vật, tư liệu liên
quan đến những năm tháng cụ Sắc sống và làm việc, nhất là thời
gian ở Cao Lãnh và vùng đất Nam Bộ.
Hàng
năm, cứ vào ngày 27/10 âm lịch, bà con nhiều nơi hội tụ về đây tổ chức lễ
giỗ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong không khí trang nghiêm và đông
vui như một ngày hội lớn ở địa phương.Hàng triệu du khách trong và ngoài
nước đã đến Đồng Tháp tham quan và viếng mộ Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thể hiện
lòng biết ơn đối với Người đã có công sinh thành Bác Hồ muôn vàn kính yêu.
Cinet
Gia Lai - Nhà tù Pleiku
Nhà tù Pleiku
29/05/2007, 09h07
Vị trí:
Nhà tù Pleiku thuộc phường Diên Hồng, Tp. Pleiku, tỉnh Gia Lai.
Đặc điểm: Nhà tù Pleiku là nơi giam giữ tù chính trị dưới
thời Pháp, Mỹ (trước 1975), nhiều hình thức tra tấn hiện đại và dã man được áp
dụng tại Nhà lao này.
Di
tích ở trung tâm Tp Pleiku, cách Bưu điện tỉnh Gia Lai khoảng 300m về phía nam,
có thể đến Di tích bằng các loại phương tiện xe ôtô, môtô hoặc đi bộ.
Năm
1925, người Pháp cho xây cất Nhà lao Pleiku để giam giữ
tù thường phạm, chủ yếu là người dân tộc. Đến năm 1940 phong
trào đấu tranh cách mạng của đồng bào các dân tộc phát triển mạnh mẽ, lúc bấy
giờ thực dân Pháp đã dùng nơi này để giam giữ những người yêu nước.
Tháng 6/1948 chi bộ Nhà lao Pleiku được thành lập.
Trong
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đế quốc Mỹ vẫn sử dụng Nhà lao Pleiku làm nơi
giam giữ tù chính trị, nhiều hình thức tra tấn hiện đại và dã man được áp dụng
tại Nhà lao này, nhưng các chiến sĩ cộng sản bị giam giữ tại Nhà lao này vẫn giữ
vững phẩm chất cách mạng, tiếp tục tham gia các phong trào đấu tranh trong Nhà
lao,...
Ngày
15/3/1975, trước khí thế hừng hực sôi động của chiến dịch Tây Nguyên, vào lúc
17h tù chính trị tại nhà lao Pleiku đã phá ra ngoài và tổ chức một bộ phận ra
vùng ven, đón một cánh quân ta từ ngã ba Trà Bá vào cùng quân dân địa phương giải
phóng thị xã Pleiku.Ngày 12/12/1994, Bộ Văn hóa – Thông tin đã Quyết định số
321/QĐ-BT công nhân di tích lịch sử: Nhà lao Pleiku.
Cinet
Hà Giang - Dinh họ Vương
Dinh họ Vương
29/05/2007, 09h25
Vị trí: Dinh họ Vương
(Vương Chí Sình) nằm trên địa bàn xã Xà Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang,
cách huyện lỵ Đồng Văn chừng 24km.
Đặc điểm:
Đây là một công trình kiến trúc đẹp, hiếm có và rất độc đáo của vùng cao nguyên
này.
Đoạn
đường dẫn vào dinh chỉ dốc thoai thoải, được lát bằng những phiến đá lớn, vuông
vức, bằng phẳng. Dinh được bao bọc bởi hai bức tường
thành xây bằng đá, dày khoảng 60cm đến gần 1m, cao từ 2,5 đến 3m. Vòng thành trong dày và kiên cố hơn vòng thành ngoài. Cả hai vòng thành đều bố trí nhiều lỗ châu mai. Khoảng đất giữa hai tường thành rộng khoảng 50m, được trồng cây.
Dinh
có 10 ngôi nhà, 6 ngôi nằm cùng một hướng, 4 ngôi kia
nằm theo hướng khác. Ngôi nhà chính quay mặt ra phía cổng.
Các ngôi nhà đều được làm bằng gỗ quý từ cột, kèo, sàn, vách.
Mái nhà lợp bằng ngói máng. Tại ngôi nhà chính còn lưu
bức hoành phi với bốn chữ "Biên chinh khả phong" được vua Nguyễn ban
cho. Các bức chạm trên đá, trên gỗ cho thấy sự tinh xảo và
tài nghệ của người thợ. Công trình đã được xếp hạng
di tích và bảo vệ từ năm 1993. Di tích này đáng để bạn dừng chân và quên
đi mọi vất vả sau những chặng đường cheo leo hiểm trở.
Công trình toát lên vẻ thâm nghiêm trong khung cảnh tĩnh mịch
nơi vùng cao biên giới.
Cinet
Hà Nam - Chùa Long Đọi Sơn
Chùa Long Đọi Sơn
29/05/2007, 09h32
Vị trí:
Chùa Long Đọi Sơn tọa lạc trên đỉnh núi Long Đọi, thuộc địa phận xã Ðọi Sơn,
huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, cách thị trấn Đồng Văn 15km (qua thị trấn Hoà Mạc),
cách quốc lộ 1A chừng 6km.
Đặc điểm:
Chùa Long Đọi Sơn có tên chữ là Sùng Thiên Diên
Linh. Chùa được tạo dựng thời nhà Lý (khoảng năm 1121), hiện
còn giữ được nhiều di vật quý.
Mặt bằng chùa rất rộng, lưng tựa vào
núi Ðiệp với ba dòng sông uốn khúc bao quanh. Ngôi chùa đã được trùng tu nhiều
lần, hiện nay chùa còn giữ được nhiều di vật quý như tượng Phật Di Lặc bằng
đồng ở chính điện; 6 pho tượng Kim Cương bằng đá, cao 1,60m; bia đá Diên Linh
(dựng năm 1121), cao 2,88m, rộng 1,40m và dày 0,29cm, đặt trên đế đá chạm rồng,
hình chạm khắc và hoa văn trang trí trên bia mang đậm phong cách thời Lý; 4 pho
tượng hình người có cánh cao 40cm, bề ngang 30cm.
Cinet
Hà Nội - Cột cờ Hà Nội
Cột cờ Hà Nội
Vị trí: Nằm ở đường Điện
Biên Phủ, quận Ba Đình, Hà Nội; gần quảng trường Ba Đình, trong khuôn viên bảo
tàng Lịch sử Quân sự.
Ðặc điểm:
Công trình kiến trúc được xây dựng từ thế kỷ 19.
Là một trong những công trình kiến trúc thuộc khu vực
thành cổ Hà Nội. Với chiều cao đáng kể, cột cờ này được nhà binh
Pháp khi đó dùng làm đài quan sát và trạm thông tin liên lạc giữa ban chỉ huy với
những đồn bốt xung quanh, ban ngày dùng bằng tín hiệu, ban đêm dùng bằng
đèn.
Cột
cờ được xây năm 1812 gồm ba tầng đế và một thân cột.
Các tầng đế hình chóp cụt, nhỏ dần, chồng lên nhau, xung
quanh xây ốp gạch. Tầng một mỗi chiều 42,5m, cao 3,1m;
có hai cầu thang gạch dẫn lên. Tầng hai mỗi chiều 27m,
cao 3,7m. Tầng ba mỗi chiều 12,8m, cao 5,1m; có bốn cửa, cửa hướng đông
trên có đắp hai chữ "Nghênh húc" (đón ánh nắng ban mai), cửa tây với
"Hồi quang" (ánh sáng phản chiếu), cửa nam với "Hướng minh"
(hướng về ánh sáng), cửa bắc không có chữ đề. Trên tầng này
là thân cột cờ, hình trụ 8 cạnh, thon dần lên trên. Trong
thân này có cầu thang 54 bậc xây xoáy trôn ốc lên tới đỉnh. Để tạo
sự thông thoáng và ánh sáng lọt qua mỗi mặt trên thân cột cờ có
từ 4 đến 5 ô hình hoa thị, vị trí cao nhất mỗi mặt có 1 ô hình dẻ quạt.
Ðỉnh cột cờ được cấu tạo thành một lầu hình bát giác, có 8 cửa
tương ứng 8 mặt. Giữa lầu là một trụ tròn,cao đến
đỉnh lầu, là chỗ để cắm cán cờ. Toàn bộ cột cờ cao 33,4m.
Nếu kể cả trụ treo cờ thì trên 41m.Cột cờ đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử của dân tộc trải
qua bao thế kỷ. Khi
cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công mang lại nền dân chủ cộng hoà Việt Nam,
lần đầu tiên, trên cột cờ lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới giữa trời.
Cinet
Hà Nội - Hồ Hoàn Kiếm
Hồ Hoàn Kiếm
29/05/2007, 14h30
|
|
Vị trí: Thuộc quận Hoàn
Kiếm, thành phố Hà Nội.
Ðặc điểm:
Hồ Hoàn Kiếm được coi là hòn ngọc của Thủ đô, hay như du khách nước ngoài gọi
là "Lẵng hoa giữa lòng thành phố".
Theo
các nhà khoa học hồ là một đoạn sót lại của sông Hồng sau khi sông đã chuyển
dòng như hiện nay. Sự việc sông nước biến
thiên ấy diễn ra cách đây vài nghìn năm. Trước đây hồ
có tên là Lục Thủy vì sắc nước bốn mùa xanh. Thế kỉ
15, hồ Lục Thủy đổi tên là hồ Hoàn Kiếm. Cái tên Hoàn Kiếm
gắn liền với câu chuyện trả gươm cho rùa vàng của vua Lê Thái Tổ.
Hồ
Hoàn Kiếm không chỉ là một nơi hóng gió, dạo mát mà còn gắn liền với đời sống
người dân Thủ đô về nhiều phương diện. Đêm giao thừa, người người nô nức du xuân quanh hồ. Xuân về, hồ là nơi gặp gỡ của thiện nam tín nữ đi lễ các đền chùa
lân cận. Các đôi uyên ương trong ngày cưới tìm đến bên
hồ để chụp ảnh lưu niệm. Hè đến, những buổi chiều oi bức,
hồ là địa điểm hóng mát lý tưởng.
Ai
đã từng một lần ngắm hồ từ trên cao vào đầu hạ sẽ không khỏi thảng thốt trước bức
tranh đầy màu sắc và nên thơ của những cây bằng lăng
tím rạng rỡ xen giữa những phượng cháy đỏ rực, những cơm nguội chín vàng. Mùa
thu, hồ Hoàn Kiếm không chỉ là một thắng cảnh đẹp với những rặng liễu rủ bên bờ,
những tàng cây ngả xuống vòng tay ôm lấy mặt nước hồ biếc xanh màu ngọc lấp
lánh nắng vàng mà còn là nơi nhân dân thủ đô lui tới để xem pháo hoa nhân những
ngày hội lớn của dân tộc như 19/8 và 2/9. Những di tích lịch sử độc đáo
như tháp Rùa, tượng vua Lý Thái Tổ, đền Ngọc Sơn, đài Nghiên, tháp Bút, đền Bà
Kiệu, chùa Bà Đá... và những công trình kiến trúc hiện đại mới được xây dựng
luôn đảm bảo kết hợp hài hòa với cảnh quan vốn có quanh hồ. Hồ Hoàn Kiếm với đền
Ngọc Sơn, cầu Thê Húc và tháp Rùa lung linh bóng nước là hình ảnh của thủ đô Hà
Nội trong mỗi trái tim người Việt Nam.
Cinet
Hà Nội - Lăng Hồ Chí Minh
Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh
29/05/2007, 14h21
|
|
Vị trí: Quận Ba Đình,
Hà Nội.
Ðặc điểm:
Nơi yên nghỉ vĩnh hằng của lãnh tụ vĩ đại của dân tộc
Việt
Lăng
được chính thức khởi công ngày 2/9/1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa quảng
trường Ba Ðình, nơi Bác Hồ đã từng chủ tọa các cuộc mít tinh lớn.
Lăng
được khánh thành vào ngày 29/8/1975. Lăng gồm 3 lớp với chiều
cao 21,6 mét, lớp dưới tạo dáng bậc thềm tam cấp, lớp
giữa là kết cấu trung tâm của lăng gồm phòng thi hài và những hành lang, những
cầu thang lên xuống. Quanh bốn mặt là những hàng cột vuông bằng đá hoa cương, lớp
trên cùng là mái lăng hình tam cấp.
Ở
mặt chính có dòng chữ: "Chủ tịch Hồ Chí Minh" bằng đá hồng màu mận
chín.
Trong
lăng là thi hài Bác đặt trong hòm kính được ghép bằng
đá đen huyền lấp lánh muôn ngàn hạt sáng. Qua lớp kính trong
suốt, Bác Hồ yên nghỉ trong bộ quần áo ka ki bạc màu, dưới chân Bác vẫn là đôi
dép cao su giản dị của người. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là nơi an nghỉ
vĩnh hằng của người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt
Nam.
<hr
Hà Nội - Nhà sàn Bác Hồ
Nhà sàn Bác Hồ
29/05/2007, 14h42
|
|
Vị trí: Nằm trong khuôn
viên Phủ Chủ tịch, thuộc quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Ðặc điểm: Đây là ngôi nhà Bác ở và làm việc từ năm 1958
đến khi qua đời.
Trong
khu vườn rộng sau Phủ Chủ tịch, có một con đường hẹp trải sỏi, hai bên trồng
xoài dẫn tới một ngôi nhà sàn nhỏ nhắn bình dị, nằm giữa những vòm cây.
Hàng rào dâm bụt bao quanh nhà, cổng vào kết bằng cành cây
đan xen nhau. Ðó là ngôi nhà Bác Hồ ở và làm việc từ
ngày 17/5/1958 cho tới khi Người qua đời. Sau nhà là vườn quả với hàng
trăm loài cây quý do các địa phương đưa về trồng, như cây vú sữa của đồng bào
miền Nam gửi biếu Bác năm 1954, bưởi Phúc Trạch, Biên Hòa, Mê Linh; cam Hải
Hưng, Xuân Mai, Vân Du, Xã Ðoài; quýt Hương Cầm, Lý Nhân; táo Thiện Phiến, Ngọc
Hồ; song mai Ðông Mỹ; hồng Tiên Ðiền. Trong vườn còn có cả những loại cây từ nước
ngoài như ngàn hoa, cây bụt mọc quanh ao, cây cau vua gốc từ Caribê...
Tầng
dưới nhà sàn là nơi Bác thường họp với Bộ Chính trị.
Tầng trên là 2 phòng nhỏ, nơi Bác làm việc và phòng ngủ với những vật dụng đơn sơ giản dị. Trước nhà là ao cá Bác nuôi, bên bờ ao là các
loài hoa phong lan nở quanh năm.Nhân dân ta từ mọi miền đất nước cũng như du
khách quốc tế đến thủ đô Hà Nội, ai cũng muốn đến viếng Lăng, thăm nhà ở của
Bác và đi dạo quanh quảng trường Ba Ðình lịch sử.
Cinet
Hà Nội - Quảng trường Ba Đình
Quảng trường Ba Đình
29/05/2007, 14h59
Vị trí: Quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Đặc điểm:
Quảng trường Ba Đình là nơi diễn ra những sự kiện trọng đại của Thủ đô và cả nước.
Nơi
đây vốn là khu vực cửa Tây của thành Hà Nội cổ.
Đầu thời Pháp thuộc, thực dân Pháp phá thành làm một vườn hoa
nhỏ gọi là điểm tròn Pugininer. Đến năm1945 mới có tên
là vườn hoa Ba Đình. Chữ Ba Đình là để gợi nhớ dải đất
Ba Đình ở tỉnh Thanh Hoá, nơi đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp kéo dài từ
9/1886 đến 1/1887.
Quảng
trường cũng là nơi chứng kiến hàng chục vạn đồng bào về dự lễ Độc lập ngày
2/9/1945. Ngày 9/9/1969, sáu
ngày sau khi Hồ Chủ tịch qua đời, cũng tại quảng trường này, lễ truy điệu Người
đã được cử hành trọng thể. Hàng vạn đồng bào Thủ đô và
các địa phương cùng 34 đoàn đại biểu quốc tế đã tới đây dự lễ.
Ngày
nay mặt chính của quảng trường là lăng Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Trước lăng là khoảng không gian rộng lớn với 320m chiều dài và 100m chiều
rộng, đủ chỗ cho 20 vạn người dự mít tinh. Quảng trường có
168 ô cỏ bốn mùa xanh tươi. Chính giữa là cột cờ cao
30m. Quảng trường Ba Đình đã trở thành không gian
thiêng liêng của Thủ đô Hà Nội.
Cinet
Hà Nội - Thành Cổ Loa và đền thờ An
Dương Vương
Thành Cổ Loa và đền thờ An Dương
Vương
29/05/2007, 15h07
|
|
Vị trí: Thuộc huyện
Đông Anh, thành phố Hà Nội.
Ðặc điểm:
Là một trong những thành cổ nhất Việt
Ðây
là toà thành cổ vào bậc nhất Việt
Thành
được xây dựng kiểu vòng ốc (nên gọi là Loa thành) tương truyền có tới 9 vòng,
dưới thành ngoài là hào sâu ngập nước thuyền bè đi lại được. Ngày nay ở Cổ Loa
còn lại 3 vòng thành đất: thành ngoài (chu vi 8km),
thành giữa (hình đa giác, chu vi 6,5km) và thành trong (hình chữ nhật, chu vi
1,6km). Thân thành ngày nay còn có chiều cao trung bình từ 4-5m, có chỗ còn cao
tới 12m, chân thành rộng tới 20-30m. Các cửa của 3 vòng thành
cũng được bố trí rất khéo, không hề nằm cùng trên một trục thẳng mà lệch chéo
đi rất nhiều. Do đó đường nối hai cửa thành ở cùng một hướng đều là một
đường quanh co, lại có ụ phòng ngự ở hai bên nên gây rất nhiều trở ngại cho
quân địch khi tiến đánh thành.
Từ
trung tâm thành phố, đi 18km đến xã Cổ Loa thuộc huyện Ðông Anh, bạn sẽ tìm thấy
vết tích còn lại của ba vòng thành xưa bằng đất và nơi các nhà khảo cổ tìm được
hàng vạn mũi tên đồng, lưỡi cày, rìu sắt, xương thú vật...
Qua
cổng làng, cũng là cổng thành trong là tới đình làng Cổ Loa.
Theo truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi
bá quan triều hội ngày xưa, nên trong đình còn tấm hoành phi "Ngự triều di
quy".
Cạnh
đình là Am Bà Chúa tức là miếu thờ công chúa Mỵ Châu, nằm nép dưới gốc đa già cổ
thụ. Miếu am bé bỏng như cuộc đời ngắn ngủi của nàng
công chúa đáng thương "trái tim lầm chỗ để lên đầu".
Trong am có một tảng đá hình người cụt đầu. Ai cũng bảo đó là tượng Mỵ Châu.Qua
am Mỵ Châu tới đền Thượng, tức đền An Dương Vương, tương truyền là dựng trên nền
nội cung ngày trước. Ðền này mới được làm lại hồi đầu thế kỷ
20, có đôi rồng đá ở bậc tam cấp cửa đền là di vật đời Trần hoặc Lê sơ. Trong đền có tượng An Dương Vương bằng đồng mới đúc cùng dịp làm lại
đền. Trước đền là giếng Ngọc, tương truyền là nơi Trọng
Thuỷ tự tử vì hối hận. Nước giếng này mà đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng
bội phần!
Cinet
Hà Nội - Thư Viện Quốc Gia
Thư viện Quốc gia
Thư viện Quốc gia Hà Nội là Thư viện Quốc gia lớn nhất nước, nằm
trên phố Tràng Thi. Được thành
lập năm 1919, thư viện lúc đó có tên là Thư viện
Pierre Pasquier. Năm 1939, thư viện chứa 92.163 cuốn sách, chiếm 20% số lượng
sách hiện có tại Việt Nam lúc đó.
Sau
năm 1954, thư viện được đổi tên thành Thư viện
Trung tâm. Ngày 26/6/1957, được đổi lại tên là Thư viện
Quốc gia.
Hàng
năm, thư viện Quốc gia luôn tiếp nhận sách mới xuất
bản tại Việt
Thư
viện Quốc gia đã lưu giữ hàng trăm nghìn cuốn sách quý từ khắp nơi trên thế
giới. Thư viện lưu giữ sách theo các chủ đề lớn về
đời sống, kinh tế, văn hoá, lịch sử, khoa học và kỹ thuật.
Các
thư viện khác ở Hà Nội là Thư viện Khoa học và Kỹ thuật, Thư viện Khoa học
Xã hội (26 Lý Thường Kiệt), Thư viện Quân đội (Phố Lý Nam Đế) và Thư viện Hà
Nội (47 Bà Triệu).
Cinet
Hà Tây - Thành cổ Sơn Tây
Thành cổ Sơn Tây
|
|
Vị
trí: Thành cổ Sơn Tây thuộc thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội khoảng
45km.
Đặc điểm: Thành cổ Sơn Tây được xây dựng từ năm
1822, thành có hình vuông, mỗi chiều dài gần 400m.
Tường
thành được xây bằng gạch đá ong, thành có 4 cổng: Ðông, Tây, Tiền, Hậu, mỗi cổng
đều có Vọng Lâu. Xung quanh thành có hào sâu 3m, rộng 20m, chu
vi khoảng 2.000m. Trong thành có 4 khẩu súng ở 4 góc thành, có điện Kính Thiên
(nơi nghỉ của nhà Vua khi đi kinh lý), có dinh thự và công đường của các quan đầu
tỉnh, kho lương thực, trại lính...
Thời
gian và chiến tranh đã huỷ hoại nhiều công trình trong khu vực thành cổ.
Hiện nay, thành cổ Sơn Tây chỉ còn lại vết tích một số đoạn
tường thành, cổng thành và một vài công trình còn sót lại trong khu vực thành cổ.
Di
tích này hiện nay đang được gìn giữ và tu tạo lại.
Cinet
Hà Tĩnh - Ngã ba Đồng Lộc
Ngã ba Đồng Lộc
31/05/2007, 10h22
Vị trí:
Ngã ba Đồng Lộc nằm ở giao điểm của tỉnh lộ số 2 và quốc lộ 15, thuộc địa
phận huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Đặc điểm: Trong kháng chiến chống Mỹ, nơi đây đã phải hứng
chịu hàng ngàn trận bom của máy bay Mỹ và sự hy sinh cao cả của tiểu
đội với 10 cô gái thanh niên xung phong.
Trong
những năm kháng chiến chống Mỹ, ngã ba Ðồng Lộc là cửa ngõ giao thông từ miền Bắc
và đường mòn Hồ Chí Minh. Máy
bay Mỹ đã tập trung khối lượng bom đạn rất lớn đánh phá ngã ba này và đoạn đường
xung quanh. Trên một đoạn đường chưa đầy 20km đã phải
hứng chịu 2.057 trận bom.
Tiểu
đội nữ thanh niên xung phong do Võ Thị Tần làm tiểu đội trưởng có 15 cô tuổi từ
17 đến 24, được giao nhiệm vụ sửa đường cho xe qua. Ngày
24/7/1968 sau nhiều trận bom cày nát đoạn đường, các cô vẫn không rời vị trí.
Vừa dứt tiếng bom, các cô lại lao ra dùng cuốc, xẻng
san lấp hố bom, vá đường, thông xe. Ðến 16h30', trận bom thứ 15 trong
ngày lại dội xuống Ðồng Lộc, một quả rơi sát miệng hầm nơi 10 cô
gái đang tránh bom. Tất cả 10 cô đã hy sinh, trong tay
chỉ có cuốc, xẻng. Chưa ai trong họ có gia đình riêng.Ngã ba Ðồng Lộc ngày
nay là nơi yên nghỉ của 10 cô gái trên đồi, cạnh hố bom năm xưa xanh mướt
màu xanh cây lá, vi vút tiếng thông reo. Tại đây có đài liệt sỹ lưu
danh 10 cô gái Anh hùng.
Cinet
Hải Dương - Khu di tích danh thắng
Côn Sơn
Khu di tích danh thắng Côn Sơn
29/05/2007, 15h39
|
|
Vị trí: Khu di tích
danh thắng Côn Sơn thuộc xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, cách Hà Nội
khoảng 70km.
Đặc điểm:
Khu di tích này gắn liền với cuộc đời của nhiều danh nhân trong lịch sử; là một
trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm vào thời Trần.
Khu
di tích nằm giữa hai dãy núi Phượng Hoàng - Kỳ Lân.
Khu di tích, danh thắng này gồm có núi non, chùa,
tháp, rừng thông, khe suối và các di tích nổi tiếng gắn liền với cuộc đời của
nhiều danh nhân trong lịch sử. Ngay từ thời Trần, chùa Côn
Sơn là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm (Côn Sơn - Yên Tử - Quỳnh
Lâm). Mảnh đất này đã gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp
của nhiều danh nhân đất Việt như Trần Nguyên Ðán, Huyền Quang và đặc biệt là
anh hùng dân tộc - danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi. Côn Sơn đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và đọc bia về Nguyễn
Trãi.
Ngày
nay, Côn Sơn còn lưu giữ được những dấu tích văn hoá thời Trần và các giai đoạn
lịch sử kế tiếp. Tiêu biểu là:
Chùa
Côn Sơn
Chùa
có tên chữ là Thiên Tư Phúc tự, hay còn gọi là chùa Hun, toạ lạc ở ngay dưới
chân núi Côn Sơn, có từ trước thời Trần. Vào đời Lê, chùa được trùng tu và mở rộng
rất nguy nga đồ sộ. Trải qua biến thiên về lịch sử và thời
gian, chùa Côn Sơn ngày nay chỉ còn là một ngôi chùa nhỏ ẩn mình dưới tán lá
xanh của các cây cổ thụ. Chùa được kiến trúc theo
kiểu chữ công gồm Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện. Thượng
điện thờ Phật, có những tượng Phật từ thời Lê cao 3m. Phía sau chùa là
nhà Tổ, có tượng Trúc Lâm tam tổ (Trần Nhân Tông - Pháp Loa - Huyền Quang), tượng
ông bà Trần Nguyên Ðán, hai pho tượng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ.
Sân
chùa có cây đại 600 tuổi, 4 nhà bia, đặc biệt là bia "Thanh Hư động"
tạo từ thời Long Khánh (1373 - 1377) với nét chữ của vua Trần Duệ Tông và bia
hình lục lăng, "Côn Sơn thiện tư bi phúc tự" đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc khi Người về thăm di tích này(15/2/1965).
Giếng Ngọc
Giếng
nằm ở sườn núi Kỳ Lân, bên phải là lối lên Bàn Cờ Tiên, phía dưới chân Ðăng
Minh Bảo Tháp. Tương truyền đây là giếng nước do Thiền
sư Huyền Quang được thần linh báo mộng ban cho chùa nguồn nước quí. Nước giếng trong vắt, xanh mát quanh năm, uống vào thấy khoan khoái
dễ chịu. Từ đó có tên là Giếng Ngọc và nước ở giếng được
các sư dùng làm nước cúng lễ của chùa.
Bàn Cờ Tiên
Từ
chùa Côn Sơn leo khoảng 600 bậc đá là đến đỉnh núi Côn
Sơn (cao 200m). Ðỉnh Côn Sơn là một khu đất bằng phẳng, tại
đây có một phiến đá khá rộng, tục gọi là Bàn Cờ Tiên. Hiện nay Bàn Cờ
Tiên có dựng nhà bia theo kiểu Vọng Lâu đình, hai tầng
cổ các tám mái. Ðứng từ đây, du khách có thể nhìn bao quát cả
một vùng rộng lớn.
Thạch BànBên
suối Côn Sơn có một phiến đá gọi là Thạch Bàn, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng
chân nghỉ khi Người tới thăm di tích này. Từ chân núi đi theo
lối mòn có kê đá xuống phía chân núi có một tảng đá lớn, mặt phẳng và nhẵn nằm
kề ven suối gọi là Thạch Bàn lớn. Tương truyền khi xưa Nguyễn
Trãi lấy làm "chiếu thảm" nghỉ ngơi, ngắm cảnh, làm thơ và suy tư việc
nước.
Cinet
Hải Phòng - Khu di tích Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm
29/05/2007, 15h48
Vị trí:
Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh
Bảo, Tp. Hải Phòng.
Đặc điểm:
Khu di tích gồm nhiều hạng mục công trình, là nơi thờ danh nhân văn hoá Nguyễn
Bỉnh Khiêm và trưng bày hiện vật về thân thế và sự nghiệp của ông.
Khu
di tích gồm 9 hạng mục: tháp bút Kình Thiên; đền thờ dựng sau khi cụ mất (1585)
với ba gian tiền đường, hai gian hậu cung, phía trước có hai hồ nước tượng
trưng cho trời và đất, bức hoành phi trong đền ghi 4 chữ “An Nam Lý Học”; nhà
trưng bày thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm; phần mộ cụ thân sinh ở
phía sau đền; tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng đá cao 5,7m, nặng 8,5 tấn; hồ bán
nguyệt rộng khoảng 1.000m²; chùa Song Mai; Nhà Tổ có tượng thờ bà Minh Nguyệt,
vợ của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Quán Trung Tân, nơi lưu giữ quan niệm mới về chữ
“Trung” hướng lòng theo “chí trung chí thiện”.Ngày nay khu di tích đã được xây
dựng khang trang, trở thành điểm du lịch văn hóa lớn của khu vực, là nơi tổ chức
các lễ hội lớn kỷ niệm danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Cinet
Hậu Giang - Di tích Long Mỹ
Di tích Long Mỹ
29/05/2007, 16h02
Vị trí: Di tích Long Mỹ
thuộc huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang nằm cách thị xã Vị Thanh khoảng 28km, cách
thành phố Cần Thơ khoảng 60km.
Đặc điểm:
Long Mỹ là vùng căn cứ cách mạng của tỉnh Hậu Giang và khu Tây Nam Bộ trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Long
Mỹ là vùng đất ở giữa vùng đất U Minh và vùng sông nước Hậu Giang.
Là vùng rừng tràm, bần cách đây khoảng 200 năm. Đến năm 1920, Long Mỹ mới bắt đầu được khai phá để ngày nay trở
thành vùng quê trù phú, đồng lúa bạt ngàn, cây trái trĩu quả. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Long Mỹ là vùng
"chiến địa" giành nhau từng tấc đất giữa ta và địch.
Đến
với Long Mỹ, du khách ghé thăm khu đền thờ Bác Hồ ở xã Lương Tâm do Đảng bộ và
quân dân Long Mỹ lập nên từ năm 1969 khi Bác mất. Đền được
trùng tu khang trang trên một khu đất rộng 1ha. Hàng
năm vào các ngày 19/5 hay 2/9 đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh đến đây
tham quan, tưởng niệm. Long Mỹ còn có khu "di tích chiến thắng 75
tiểu đoàn nguỵ" tại xã Vĩnh Viễn được xây dựng trên diện tích rộng gần
2ha, bao gồm nhiều công trình phục vụ du khách tham quan tìm về quá khứ oanh liệt
của cha ông ngày trước. Nơi đây còn có các khu vui chơi, giải trí.Đến Long Mỹ,
du khách sẽ có dịp vào thăm vườn cò độc đáo được hình thành từ năm 1986 tại xã
Xà Phiên, với hàng chục ngàn con cò các loại cùng 30 loài chim đặc trưng của
sông nước miền Nam. Giữa khung cảnh trời mây, sông nước, sinh
vật thiên nhiên cây cỏ hiền hoà, du khách vừa thưởng thức trái cây được hái tại
vườn vừa lắng nghe chim muông ca hát. Long Mỹ sẽ là một
tour du lịch sinh thái và văn hoá hấp dẫn tại Hậu Giang.
Cinet
Hoà Bình - Thuỷ điện Hoà Bình
Thủy điện Hòa Bình
29/05/2007, 16h08
Vị trí:
Nằm ở thành phố Hòa Bình, trên dòng sông Đà, tỉnh Hòa Bình.
Đặc điểm:
Là công trình thủy điện lớn nhất của Việt
Các
hạng mục công trình gồm có: đập đất đá, tràn xả lũ, hồ
chứa nước, nhà máy thủy điện ngầm trong lòng núi, âu thuyền và trạm phân phối
điện ngoài trời. Theo thiết kế, nhà máy có 8 tổ máy hoạt động, công suất mỗi tổ
máy 240.000kw.Ngày nay hồ chứa nước của công trình thủy điện này có bề mặt hàng
trăm ki lô mét vuông, với sức chứa hàng tỷ mét khối nước, đã trở thành một tuyến
du lịch lòng hồ sông Đà rất hấp dẫn du khách.
Cinet
Huế - Cầu Tràng Tiền
Cầu Tràng Tiền
|
Vắt qua sông Hương có hàng chục chiếc cầu, nhưng chỉ
có một cây cầu trở thành một trong những biểu tượng của Huế, đó là cầu Tràng
Tiền.
Theo
sách Đại nam Nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn ''cầu sắt
Tràng Tiền ở Đông Nam kinh thành... khởi làm năm Thành Thái thứ 9 (1897) cầu có
6 gian (6 nhịp), dài khoảng 400m, đến năm 1899 mới xong''.
Đến tháng 8 năm 1904, một cơn bão dữ dội tràn vào miền
Trung Việt
Huế - Cố Đô Huế
Cố đô Huế
|
Huế từ xa xưa đã
được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của xứ "Đàng Trong" và
chính thức trở thành kinh đô dưới triều Tây Sơn. Trong gần 4 thế kỷ, Huế đã trở
thành một quần thể di tích kiến trúc và thắng cảnh vĩ đại, tổng thể di tích này
đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.
Nằm ở bờ Bắc sông
Hương, tổng thể kiến trúc của cố đô Huế được xây dựng trên một mặt bằng diện
tích hơn 500 Ha và được giới hạn bởi 3 vòng thành theo
thứ tự ngoài lớn, trong nhỏ: Kinh Thành, Hoàng thành và Tử Cấm Thành. Tổng thể
kiến trúc này dùng núi Ngự Bình làm tiền án và dùng hai hòn đảo nhỏ trên sông
Hương là Cồn Hến và Dã Viên làm 2 yếu tố phong thuỷ rồng chầu hổ phục (Tả
Thanh Long Hữu Bạch Hổ) để bảo vệ cố đô.
Kinh
Thành Huế:
Do
vua Gia Long xây dựng từ năm 1805 và sau này được vua Minh Mạng tiếp tục hoàn
thành vào năm 1832. Tại đó các vua triều Nguyễn đã cho xây
dựng khá nhiều thành quách, cung điện và các công trình của hoàng gia. Trải qua gần 200 năm khu kinh thành hiện nay còn hầu như nguyên
vẹn với gần 140 công trình xây dựng lớn nhỏ.
Kinh
thành hình vuông với chu vi 10 km, cao 6,6 mét, dày 21
mét, gồm có 10 cửa để ra vào. Xung quanh và ngay trên thành
có thiết lập 24 pháo đài để phòng thủ. Ngoài ra còn có
một cửa phụ thông với Trấn Bình Đài gọi là Thái Bình Môn.
Hoàng
Thành (Đại Nội):
Nằm ở khoảng giữa kinh thành là nơi đặt các cơ quan
cao nhất của chế độ quân chủ và là nơi thờ tự các vua chúa đã quá cố. Hoàng Thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600
mét, xây bằng gạch, cao 4 mét, dày 1 mét xung quanh có hào bảo vệ, có 4 cửa để
ra vào, riêng Ngọ Môn chỉ dành để cho vua đi. Đại Nội gồm có hơn 100 công trình
kiến trúc đẹp được
|
chia ra
nhiều khu vực:
25. Từ Ngọ Môn đến
điện Thái Hoà: nơi cử hành các lễ lớn của triều đình.
26. Triệu Miếu, Thái
Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu và điện Phụng Tiên: nơi thờ các vua chúa nhà Nguyễn.
27. Phủ Nội Vụ: nhà
kho tàng chữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ dùng cho Hoàng Gia.
28. Vườn Cơ Hạ và điện
Khâm Văn: nơi các hoàng tử học tập và chơi đùa.
Tử
Cấm Thành:
Là vòng thành nằm trong Hoàng Thành ngay sau Lưng điện
Thái Hoà. Tử Cấm
Thành dành riêng cho vua và gia đình vua. Tử Cấm Thành
được xây dựng năm 1804. Thành cao 3,72 mét xây bằng gạch, dày 0,72 mét,
chu vi khoảng 1230 mét, phía trước và phía sau dài 324 mét, trái và phải hơn
290 mét, bao gồm gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ và có 7 cửa ra vào. Đại Cung Môn là cửa chính ở mặt tiền chỉ dành cho vua đi vào.
Cần Chánh (nơi vua làm việc hàng ngày). Càn Thành (nơi vua ở), Cung Khôn Thái
(chỗ ở của Hoàng Quý Phi). Duyệt Thi Đường (nhà hát), Thượng Thiện (nơi nấu ăn cho vua). Thái Bình Lâu (nơi vua đọc sách)... Ngoài ra,
Huế còn nổi tiếng bởi khu lăng tẩm của các vua nhà
Nguyễn. Bảy lăng, mỗi lăng mang một sắc thái riêng
nhưng đều là những kỳ công tạo tác của con người phối hợp với cảnh trí thiên
nhiên hùng vĩ tươi đẹp và thơ mộng của xứ Huế.
Cố
đô Huế với sông Hương và núi Ngự và các cung điện lâu đài, lăng tẩm, đền, miếu,
chùa chiền đã có hàng mấy trăm năm lịch sử giờ đây đang được nhân dân Việt Nam
cùng cộng đồng Quốc tế đóng góp công sức và tiền của để tôn tạo tu bổ giữ cho
kiến trúc cố đô Huế mãi mãi là di sản văn hoá của nhân loại.
Cung Diên Thọ
Nơi
ở của Hoàng Thái Hậu (mẹ vua) , dựng năm 1804, ở ngoài khu vực Tử Cấm Thành (mé
bên phải) , ngoài cung còn có nhiều công trình lớn nhỏ khác nữa, nằm gọn trong
một khu vực hình chữ nhật, chu vi trên 500m, có tường cao vây bọc.
Qua Thọ Chỉ Môn là cổng chính sẽ tới một sân rộng có tấm bình phong đồ sộ án ngữ phía trước. Hai bên sân có một số
công trình kiến trúc, bên trái là nhà Tả Trà, bên phải là lầu Tịnh Minh.
Cung Diên Thọ nằm ở vị trí trung tâm, dựng theo kiểu
"trùng thiền diệp ốc", nền thấp, có hiên rộng mái lợp ngói âm dương,
trang trí hình chim phượng; bờ nóc, bờ mái. dải cổ
diêm...đắp ô học, gắn những bức tiểu họa nhiều màu sắc. Các bộ phận kết cấu gỗ
ở bên trong Cung Diên Thọ đều bằng gỗ lim không sơn son thiếp vàng, chỉ đánh
bóng hoặc chạm hình hoa lá cách điệu và các mẫu hình trang trí truyền thống khá
trang nhã tinh tế.
|
Tòa chính dinh gồm bảy gian; hai gian đầu bên phải và hai gian đầu bên trái
được ngăn thành buồng, kín đáo riêng biệt nhưng hơi tối: ba gian giữa là nơi
tiếp khách. Phía sau cung Diên Thọ là điện Thọ Ninh, bên trái là tạ Trường Du,
bên phải là Am Phước Thọ, tất cả đều nối với cung bằng một hệ thống hành lang
có mái che. Cung Diên Thọ cũng được nối lên với điện Câu
Thành (nơi vua ở) và Thái Bình Lâu. Duyệt Thị Đường bằng hệ thống trường
lang. có mái che, tạo thành lối đi lại rất thuận tiện trong mọi thời tiết.Cung
Diên Thọ là một công trình kiến trúc lớn, có nhiều vẻ đẹp độc đáo thâm nghiêm
ấm cúng trang nhã còn được bảo tồn khá tốt cho tới nay.
Lăng Gia Long
|
Gia
Long lên ngôi năm 1802, sau một thời gian dài tìm kiếm, đất tốt mãi đến năm
1814 mới bắt đầu cho xây dựng lăng. Từ việc chọn đất
vẽ kiểu.v.. Nhà Vua đều đích thân tham gia, năm 1819,
Gia Long qua đời năm sau (1820) việc xây lăng được hoàn thành Lăng mang tên
thiên thọ, cách kinh thành Huế 16Km ( theo Đường thuỷ
là19km) nằm theo hướng Bắc Nam giữa một vùng núi non hoang sơ, xanh rợp bóng
thông cổ thụ, có 36 ngọ núi châu tuần xung quanh hai bên là nguồn hữu trạch,
nguồn tả trạch như vòng tay ôm ấp. Lăng được xây dựng theo kiến thức đơn sơ
nhưng hoành tráng bên chân núi đại thiên thọ được lấy làm tiền án có dựng hai
cột trục cao trước lăng là hồ bán nguyệt : phía sau hồ
là sân chầu , rồi đến sân tế 6 lớp.
Lăng Minh Mạng
Khởi công xây dựng vào năm 1804, sau hàng chục năm lựa
chọn đất tốt. Năm 1843 gần 3 năm
sau khi Minh Mạng qua đời lăng mới được xây dựng mang tên Hiếu lăng , cách kinh thành 12km (vùng đồi cẩm kê, nhìn ra ngã 3
bằng lăng) chiếm một diện tích 26ha, gồm trên 30 công trình kiến trúc lớn nhỏ
lăng chia làm hai khu vực, nơi thờ và nơi đặt mộ, nằm trên một trục dọc xuyên
suốt cả khu vực. Những công trình chủ yếu đều được xây dựng trên trục chính
này; công trình khác làm đăng đối ở hai bên, theo một
trật tự nghiêm ngặt. Cả khu lăng tẩm được điểm xuyết
bằng nhiều hồ sen, cầu, cổng, đình tạ, vườn hoa cây cảnh, thông. .., rất ngoạn mục.
Vây bọc quanh lăng là thành hình bầu dục, chu vi
gần 1800m; tường thành cao trên 3m, dày gần 1m. Phía trước có
ba cổng lớn. Cổng chính giữa là Đại Hồng Môn, hai bên
là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn. Sau Đại Hồng Môn là
sân chầu rộng thênh thang; hai bên sân có tượng đá văn quan võ tướng và voi
ngựa chầu hầu. Tiếp đó là nhà bia - một tòa nhà
vuông vức dựng trên nền cao ba tầng. Phía trước phía sau đều
có bậc đá để lên xuống, thành bậc tạc rồng. Trong nhà bia
đặt tấm bia thánh đức thần công cao trên 3m, rộng gần 2m, khắc bài văn bia do
vua Thiệu Trị soạn thảo. Sau nhà bia là sân tế, chia
làm 4 cấp cao dần.
|
Cuối sân tế là Hiển Đức Môn, cổng vào khu thờ được xây kín
bằng một vòng tường thành (nội la thành) hình chữ nhật. Sau Hiển Đức Môn là một sân rộng lát gạch Bát Tràng. Cuối
sân là điện Sùng Ân - điện thờ chính dựng theo kiểu
"Trùng thiền diệp ốc". Hai bên sân là Đông Phối
điện và Tây Phối điện. Sau điện Sùng Ân lại có một sân nữa, hai bên sân
là Tả Tùng viện và Hữu Tùng viện: Phía sau khu điện thờ, qua của Hoàng Trạch là
lối đi dẫn tới cầu Trung đạo bắc ngang qua Hồ Trường Minh, hai bên song song
với cầu Trung Đạo là cầu Tả Phụ và cầu Hữu Bột. Qua cầu Trung Đạo, cách một sân
hẹp là tới Minh Lâu - tòa nhà vuông hai tầng tám mái lợp ngói lưu ly dựng trên
nên cao, khá nguy nga đồ sộ.
Qua Minh Lâu đi tiếp theo Đường thần đạo, hai bên có vườn hoa, già sơn và hai
bên cột trụ biển cao tới 21m sẽ tới cầu "Thông Minh Chính Trực" bắc
ngang qua hồ tân Nguyệt. Hai đầu cầu có dựng "bái
môn", trụ đông, xa dòng, trang trí bằng các tấm men pháp lam các màu.
Qua cầu là một sân hẹp, tiếp đó là hệ thống bậc đá dẫn tới bửu thanh hình tròn
(viên thành), trong đặt mộ vua.
Lăng Minh Mạng với hệ thống điện thờ, lầu gác trùng trùng lớp
lớp đăng đối chỉnh tề như trên đã tạo ra một cảnh thế Đường bệ uy nghiêm, phản
ánh được phần nào tưởng và cá tính của ông vua nổi tiếng chuyên chế này.
Lăng Tự Đức
|
Cách kinh thành chừng 7km, giữa một rừng thông cùng
với nhiều.cây cao bóng cả khác. Cả
khu vực lăng được vây quanh bằng một vòng la thành,
đoạn thẳng, đoạn gấp khúc, tạo nên một hình đa giác, mở bốn cửa. Hiện nay ra
vào lăng thường qua cửa Vu Khiêm ở mặt bên. Mặt chính
có hai cửa (cửa Tự Khiêm và của Thượng Khiêm, cách nhau một quãng ngắn, được
nối liền bằng một bình phong. . .Lăng Tự Đức cũng chia làm hai khu vực, nơi thờ
cúng (tẩm) và nơi đặt phần mộ (lăng), nhưng không bố trí trên một trục chính
xuyên tâm như lăng Minh Mạng. Ở đây, chúng ta thấy một sự phá cách theo
hướng bố cục tự do nhưng vẫn tuân thủ chặt chẽ tư tưởng chủ đạo trong ý đồ xây
dựng lăng tẩm của các bậc đế vương (nổi bật nhất là ý thức tôn quân và tôn ti
trật tự phong kiến) và vẫn cố gắng đáp ứng một cách đầy đủ nhất những chuẩn mực
tối ưu của thuật phong thủy.
Lăng xây dựng xong vào năm 1867. Mười
sáu năm sau, năm 1883, vua Tự Đức mới qua đời. Lúc còn
sống, nhà vua vẫn thường ra đây nghỉ ngơi giải trí, đọc sách ngâm thơ.
Vì vậy, trong lăng còn có rất nhiều công trình kiến trúc rất đẹp như cung
điện, lầu gác, đình tạ, cầu quán, hồ sen, vườn cảnh, nhà hát..., phối trí hài
hòa với khung cảnh thiên nhiên, tạo nên nhiều vẻ đổi thay kỳ thú.
Lúc đầu lăng mang tên Khiêm Cung, sau mới đổi thành Khiêm Lăng. Tên của 50 công
trình kiên trúc lớn nhỏ trong lăng đều có chữ Khiêm nhằm biểu đạt ý nguyện
"khiêm nhượng" của nhà vua.
Qua của Vụ khiêm, có con đường lớn không kéo dài thẳng băng mà mềm mại uốn
khúc, dần tới các khu vực khác nhau trong lăng. Bên
phải lối đi là hồ Lu Khiêm, giữa là đảo Tịnh Khiêm, nơi nuôi chim thú nhỏ và
trồng nhiều cây cảnh, hồ có ba nhịp (cầu Tiễn Khiêm, cầu Do khiêm, cầu Tuần
Khiêm). Ven hồ có hai nhà thủy tạ, nơi vừa đọc sách, hóng
mát, và cũng là bến thuyền rồng, Xung Khiêm tạ và Dũ Khiêm tạ. Xung
Khiêm tạ ở phía bên kia hồ là một kiểu nhà ghép tiếp mái gồm hai tòa nhà đặt
trên hai độ cao chênh nhau: toà phía sau dựng trên đất liền toà phía trước nối
tiếp với toà phía sau nhô ra hồ được đỡ bởi ba hành cột (54cột) phía trên không
có tường bao xung quanh chạy lan can rất thoáng. Dũ khiêm ta ở phía bên này hồ,
đối diện với phía khiêm cung môn cổng chính dẫn vào điện toà Khiên nơi thờ Vua
và Hoàng Hậu phía trước điện thờ là sân rộng hai bên có hai dẫy tả vu hữu vu (
mang tên lễ Khiêm vu, pháp khiêm vu ) sau điện thờ là một mảnh sân hẹp hai bên
sân cũng có hai toà nhà một bên là Minh Khiên Đường - nhà hát có sân khấu, cánh
gà, buồng trò, chỗ ngồi xem trần lát ván có khắc hình trang trí, mặt trời mặt
trăng các trùm sao tượng trưng cho nhị thập bát tú đối diện với Minh khiêm
Đường là Ôn khiêm Đường nơi ở của các cung nhân trông coi việc đèn nhang phía
sau điện hoà khiêm là điện lương khiêm nơi thờ bà mẹ vua Tự Đức.
Phía ngoài khu thờ còn có một công trình phụ khác vốn là nơi ở của các cung tần
và những người hầu hạ phục dịch (lúc nhà vua còn sống) gần đó còn có vườn nuôi
nai nữa.
Theo một trục chính bên ngoài thiên cung môn đi tiếp theo hướng Bắc sẽ đi tiếp
sang khu vực đặt phần mộ nằm song song với khu điện thờ ở bên mé tay trái theo
hướng Tây Đông và lui vào phía trong một chút phía ngoài cùng là bái đình hướng
thênh thang tiếp đó là bia đình đồ sộ trong đặt tấm bia lớn nhất trong số các
bia, Thánh đức thần công ở Huế ( cao tới 4 m rộng tới 2,55 m dầy 0,48 m ) chạm
chổ rất đẹp hai mặt khắc bài " khiêm cúng ký" gồm 4935 chữ 9 cũng là
bài văn bia nhiều chữ nhất trong số các bia cùng loại hai bên bi đình là hai cột
trụ hoa biến rất cao tiếp đó là hồ bán nguyệt và cuối cùng là hồ ba thành nơi
đặt mộ nhà vua các kiến trúc của khu phần mộ được bố trí trên sườn đồi thoai
thoải càng lùi dần vào sau càng lên cao dần cả khu rừng đều rợp bóng thông.
Khiêm lăng thực sự là một công viên - hoàng cung được trang điểm một cách tài
tình bằng nhiều hồ sen, vườn hoa cây cảnh cầu quán, đình tạo nên cây cảnh sắc
thơ mộng thanh thoát, phản ánh được phần nào bản chất nhu nhược đa sầu đa cảm
của ông vua thi sĩ đúng và giai đoạn đất nước lâm nguy ngai vàng nghiêng ngả
(1848-1883.)
Phu Văn Lâu
Tòa
lầu hai tầng ở phía trước kinh thành Huế, được xây dựng vào đầu thế kỷ 19, nơi
niêm yết các chiếu thư chỉ dụ cửa nhà vua treo bảng vàng ghi tên các tiến sĩ,
phó bảng trong các kỳ thi Đình và cung là nơi tổ chức các cuộc vui mừng thọ nhà
vua.
Lầu dựng trên nền cao hình vuông, mỗi bề khoảng trên 12m, lát
đá cẩm thạch. Xung quanh nền có lan can, bậc
cấp và sân lát gạch. Mười sáu cột lim tròn loại lớn 4 cột cái cao tới 8m; 12
cột con cao khoảng 3m) sơn son đặt trên đá tảng dưới vuông, trên tròn nâng đỡ
hai tầng mái lợp ngói tráng men (ngói hoàng lưu ly): Tầng dưới để trống; tầng
trên cả bốn mặt đều dựng đố bản, có cửa sổ tròn ở hai mặt trước sau và của sổ
vuông ở hai mặt tả hữu, phía ngoài có lan can con tiện vây quanh.
Nóc lầu đắp đôi rồng chầu mặt trời, góc mái đắp hình con
giao. Bờ nóc, bờ quyết đều chia thành ô hộc có trang
trí các hình hoa lá bằng mảnh sứ nhiều màu.
|
Dưới mái lầu có treo biển đề ba chữ lớn "Phu Văn
Lâu". Hai bên mặt tiền có
dựng hai tấm bia đá, khắc mấy chữ "Khuynh cái hạ
mã", nhắc nhở mọi người qua đây phải "nghiêng lọng, xuống ngựa"
để tỏ lòng tôn kính. Sân trước còn có đặt hai khẩu thần công
loại nhỏ đúc bằng đồng.
Sau 170 năm kể từ ngày được xây dựng (tháng 7 năm 1819) Phu Văn Lâu đã trải qua
nhiều lần sửa sang tu bổ, nhiều vật liệu xây dựng đã bị thay thế, một số bộ
phận kiến trúc, bài trí đã bị mất hoặc đổi dời vị trí nhưng Phu Văn Lâu vẫn tồn
tại trong vẻ đẹp tổng quát thanh nhã cân xứng hài hòa cố hữu của nó, bên Ngọ
Môn đồ sộ và Kỳ Đài hùng vĩ, như câu ca dao xa đã mô tả: "Ngọ Môn năm
cửa chín lầu. Cột cờ ba cấp. Phu Vãn
Lâu hai tầng".
Sân Đại Triều Nghi và Điện Thái Hoà
|
Phía
sau Ngọ môn qua cầu trung đạo ngang Hồ Thái Dịch với hai bà môn thanh mảnh cột
đồng rồng quấn, biển gạch lam mầu sắc rực rỡ ở hai đầu cầu, du khách đứng trước
sân rộng , chia làm 3 cấp đó là sân Đại Triều
Nghi (còn gọi là sân rồng) nơi trăm quan văn võ và đại biểu " trăm
họ" chầu vua bên sân có những tấm bia đá ghi rõ vị trí của các quan chức
theo phẩm trật. Khu vực thấp nhất, gọi là đệ tam bái đình (sân chầu thứ ba)
dành cho các Hương hào kỳ lão và họ ngoại của nhà vua (được vào chầu nhân những
dịp đặc biệt nào đó, như là lễ mừng thọ nhà vua chẳng hạn. phía trên đệ nhị
bái đình, cao hơn một cấp dành cho các Quan từ cửu phẩm đến tứ phẩm; đệ nhất
bái đình cao nhất.
Sát thềm điện Thái Hòa, dành cho các quan từ tam phẩm đến nhất phẩm, Điện làm
theo kiểu trùng thiềm Diệp ốc (nhà kép ghép dọc), dựng trên nền hình chữ nhật,
cao hơn "Đệ nhất bái đình" khoảng một mét, và cao hơn mặt đất phía
ngoài sân tới gần hai mét rưỡi. Tiền điện (hoặc tiền tích, tiền doanh, tiền
đường) nằm ở phía trước cao hơn 10m, gồm 7 gian chính, 2 chái ở hai đầu có tường
bao trổ cửa sổ tròn; chính diện nằm sát phía sau tiền điện, cao hơn tiền điện
khoảng 2m, Mái điện trước đây lợp ngói ống men vàng. Bờ mái,
bờ nóc trang trí hình rồng; phần cổ điện đắp ô hộc gắn hình trang trí và những
bức tiểu hoa, tiểu thị tráng men pháp lam. Chính giữa nóc tiền điện có
gắn bầu rượu bằng pháp lam. Bên trong tiền điện không làm
trần. Nơi mái tiền điện và chính điện tiếp giáp nhau có đặt máng xối,
bên dưới là trần thừa lu (vỏ cua) trang trí thanh
nhã. nối liền với trần của chính điện. Trần của chính
điện có chia thành nhiều ngăn, treo đèn lồng gian giữa, phía trong cùng của
chính điện có kê bục cao ba tầng trên đặt ngai vàng, phía sau ngai vàng bức
trướng lớn thêu rồng phía trước ngai đặt bàn nhỏ khảm xà cừ đỉnh đồng. Bao quanh gian giữa ở phía trên là những lớp y môn lộng lẫy trạm
trổ tỉ mỉ, phối hợp hài hòa với những hàng cột trang trí bằng mây, rực rỡ vàng
son. Liên kết các hàng cột có bầy nhiều độc bình, ché,
chậu cảnh đều là đồ sứ cổ quý giá.
Điên Thái Hòa là nơi thiết đại triều (vào ngày mồng một và ngày rằm hàng tháng)
và tổ chức các cuộc đại lễ (lễ lên ngôi, lễ mừng thọ, lễ tuyên thệ gọi tên các
vị tân khoa trong các cuộc thi đình v,v...)
Ngọ
Môn
Cổng chính của hoàng thành mở về phía nam, nhìn thẳng ra kỳ đài ở mặt tiền
phòng thành một công trình độc đáo có kết cấu hai phần: đế và lầu.
Phần đế là khối kiến trúc hình chữ U xây bằng đá và gạch vồ, cạnh đáy đo được
gần 56m, cao khoảng trên 5m , hai chữ U nhô ra phía trước dài tới 27m,
giữa cạnh đáy tạo 3 cổng lớn, hình chữ nhật đứng cửa giữa là lối ra vào của nhà
Vua rộng hơn 3m cao hơn 4m hai bên là là giáp môn và hữu giáo môn phía trên cử
giữa có hai phía ngọ môn bọc vàng khá lớn lớp vàng đã bị bóc mất từ lâu. Xuyên
suốt hai hàng chữ U là hai lối đi dài tới 25m uốn gấp thước thợ trổ thành hai
vòm cửa, ở hai mé bên đầu càng đối diện nhau đó là tả dịch môn và hữu dịch môn
mặt tiền của hai đầu càng hình chữ U đều chổ.
Cửa sổ hình tròn trang trí chữ Thọ cách điệu
Mặt trên của phần đất lát gạch bát tràng xung quanh chạy lan can xếp gạch hao
đúc rỗng tráng men với nhiều kiểu trang trí khác nhau trên mặt lầu này là lầu
ngũ phụng hai tầng hai lớp mái, gồm một dẫy nằm ngang ở giữa 9 trên cạnh đáy
hình chữ U của của phần đè ) và hai dẫy lầu nằm dọc ( trên hai càng hình
chữ U của phần đế ) 100 cột lim sơn son trong đó có 48 cột xuyên suốt cả
hai tầng lầu đỡ hệ thống mái tạo thành 9 nóc lầu lợp ngói tráng men ( hoành lưu
ly ngói men vàng ở giữa thành lưu ly , ngói men xanh mục ở hai bên ) mái lầu
trang trí hồi long, lá lật nơi ngậm kim tiền, cúc trúc lan mai bằng mảnh sứ
ghép gắn trong các ô hộc.
Thế miếu
Là
nơi thờ phụng các vua và hoàng hậu nhà Nguyễn, xây dựng năm 1821 dưới triều
Minh Mạng, là một khối nhà ghép kiểu "trùng thiềm điệp ốc" đồ sộ, bề
thế, dài tới trên năm chục mét, chiều sâu lòng nhà gần ba chục mét, dựng trên
nền cao gần một mét bó đá xanh mái lợp ngói lưu ly men vàng, trang trí hồi
long, bầu rượu pháp lam ngũ sắc; phần cổ diên giữa hai tầng mái khá rộng, chia
thành nhiều ô hộc, gắn các bức tiểu họa và tiểu thi nhiều màu. Bộ khung nhà
bằng gỗ lim được sơn thiếp vàng son rực rỡ, trần thừa lu trạm trổ chau chuốt:
trần chính doanh sơn vàng, nội thất có nhiều mầu hình trang trí cổ điển, chạm
trổ khá tinh xảo; nhiều tiểu họa tiểu thi khá tinh tế gắn trong lòng các ô hộc
làm tăng thêm vẻ đẹp của các bộ phận kết cấu gỗ. Thế Miếu khi
mới xây xong chỉ thờ Gia Long. Cho tới nay.
trong miếu thờ 10 vua: Gia Long (1802-1819), Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị
(1841-1847), Tự Đức (1848-1883) , Kiên Phúc (1883-1884), Hàm Nghi (1884- 1885),
Đồng Khánh (1886-1888), Thành Thái (1889- 1907), Duy Tân (1 907-1916), Khải
Định (1910-1 925) .
|
Ba vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân vì chống Pháp nên mãi tới giữa thế kỷ này
mới được đưa vào Thị Miếu. Ở mỗi gian, phía ngoài, phần tiền doanh, bày
án thờ sơn son phía trong, sau bức mành vẽ rồng mây ngũ sắc từ trần thừa lưu
buông rủ xuống, thuộc phần chính doanh, đặt sập thờ và bàn thờ bày các đồ tế
khí, tiếp đó ở trong cùng là khám thờ lớn bày bài vị vua và hoàng hậu. (Gia
Long và hai hoàng hậu Thừa Thiên và Thuận Thiên thờ ở gian giữa; Minh Mạng và
hoàng hậu thờ ở gian thứ hai bên trái; Thiệu Trị và hoàng hậu thờ ở gian
thứ hai bên phải; Tự Đức và hoàng hậu thờ ở gian thứ ba bên trái v.v...).
Trước Thế Miếu là sân tế rất rộng: giữa là sân chính, hai bên có sân phụ, Từ
thềm xuống sân có ba khối bậc cấp có bốn con rồng đá làm thành bậc. Khối bậc cấp ở giữa rộng nhất, có bốn con rồng đá làm thành bậc.
chia bậc cấp làm ba lối lên xuống Trên sân còn bày
chậu cảnh đặt trên đôn đá, chạm khắc công phu. Quanh sân có
trồng nhiều cây. Có cây tùng, dáng đẹp,gọi là
tùng Thề Miếu, tương truyền được trồng cách đây 150 năm.
Đặc biệt trước Thế Miếu có bầy chín đỉnh đồng cực lớn (cửu
đỉnh), mỗi đỉnh có một tên riêng; Cao Đỉnh, Nhân đỉnh. CHương Đỉnh, Anh
Đỉnh, Nghị Đỉnh, Thuần Đỉnh, Tuyên Đỉnh, Dụ Đỉnh, Huyền Đỉnh. Lớn nhất là Cao
Đỉnh (nặng 2755kg; cao trên 2m; Đường kính miệng đỉnh hơn 1 m) . Trên mỗi đỉnh
có 18 hình khắc chạm nổi, kèm theo chữ, miêu tả các hiện tượng thiên nhiên (như
mặt trời, trăng, sao, cầu vồng, mây. ..) núi sông đất nước (biển Đông, sông Cửu
Long, sông Thao, đèo Ngang, của ải Hải Vân. ..) chim muông, cỏ cây, hoa lá và
sản vật các địa phương (hổ, rồng, trĩ, ba ba, lợn, cá rô, cà cuống, lúa, hành,
tỏi, nghệ, rau tía tô, hoa dâm bụt, hoa ngọc lan, hoa tử vi, quả vải quả
mít...), các vật dụng khí tài (thuyền buồm, đại bác, súng phun lửa, xe tứ
mã...). tất cả gồm 162 hình lớn nhỏ, nói lên được phần
nào cảnh quan hùng vĩ của núi sông và tài nguyên sản vật phong phú đa dạng của
đất nước, đánh dấu trình độ kỹ thuật với nghệ thuật khá cao của ngành đúc đồng
ở nước ta hồi đầu thế kỷ 19. Cũng thuộc khu vực Thế Miếu, còn có một số công
trình kiến trúc có giá trị khác nữa như Hiển Lâm Các, Tả Tùng Tự và Hữu Tùng Tự
thờ các công trình và một hệ thống cửa tam quan (một chính, hai phụ) xây cất
công phu, trông khá đồ sộ với nhiêu tầng mái giả, góc uốn cong. Nhưng dải cổ
điểm đắp ô hộc gân hình rồng phượng, hoa lá long mã, bát bửu khá tinh xảo...
Hiển Lâm Các ở phía trước Thế Miếu.. ba tầng mười hai mái. Toàn bộ chiều cao đạt tới 15m, tầng
dưới gồm ba gian hai chái, tầng giữa chỉ có ba gian, tầng trên cũng chỉ là một
gian lầu, vì vây trông kiểu dáng lại càng có vẻ thanh thoát cao vút lên... Tầng
dưới, hai chái ở hai bên đều có tường bao, có cửa sổ gắn gạch trổ hoa, ba gian
giữa để trống.Ở gian chính giữa có bốn cây cột cái, cao tới trên 12m, xuyên
suốt 3 tầng đỡ bộ khung mái của tầng lầu trên cùng; xung quanh là bốn cột nhỡ,
cao khoảng 8m, đỡ kết cấu rầm xà, con sơn nâng bộ mái của tầng giữa; mười sáu
cột quan cao khoảng 3m đỡ các tầng mái của tầng dưới cùng những hàng lan can
con tiện trau chuốt được lắp đặt khéo léo vây quanh những vách gỗ của lá sách
hoặc các khoảng trống của các gian ở cả ba tầng. Từ tầng dưới lên tầng giữa và
tầng trên cùng đều có cầu thang gỗ, thành bậc tay vịn
chạm trổ khá tỉ mỉ.
Mái Hiển Lâm Các lợp ngói ống tráng men vàng, đầu bờ nóc, các
góc mái đắp hình con giao. .Giữa bờ nóc mái lầu trên
cùng gắn một bầu rượu.
Mặt trước và mặt sau Hiển Lâm Các nối thềm cao với sân, có
chín bậc cấp rộng với bốn con rồng đá chia thành ba lối lên xuống.
Hiền Lâm Các là một công trình kiến trúc khá độc đáo cao nhất trong số các kiến
trúc trong Hoàng thành, cùng với các cửa Tam quan đã góp phần làm tăng thêm vẻ
trang trọng tôn nghiêm của nơi thờ phụng.
Lăng Khải Định
Đây là Lăng cuối cùng của dòng vua nhà Nguyễn. Được khởi xây từ năm 1920, đến năm
1931 mới hoàn chỉnh. Lăng Khải Định cách cố Đô Huế 10km, nằm trên núi
Châu Ê, gọn trong 1 khuôn viên hình chữ nhật dài 117m, rộng 49m. Vật liêu chính
để xây lăng là sắt thép và bê tông. Nhìn xa, Lăng
trông giống như một lâu đài Châu Âu hơn là một kiến trúc công trình Châu á
trong khuôn viên của Lăng có rất ít cây cối nhưng đứng từ trên sân khấu trước
nhà bia hay đừng từ trên Điện Khải Thành nhìn ra, phong cảnh xa xa xung quanh
Lăng cũng không kém phần hùng vĩ; trước mặt Lăng có khe Châu Ê chảy vòng từ
trái sang phải, ở phía chân trời có núi Chóp Vung và núi Kim Sơn chầu vào trước
lăng trong vị thế "tả long hữu hổ". Rừng thông trước mặt lăng ngày xưa mọc xum xuê, vừa qua bị chiến tranh và thời
gian tàn phá, nay bắt đầu mọc lại lác đác.
|
Điện
Khải Thành và cung Thiên Định cùng với cửa tam quan sân chầu, nhà bia, trụ
biểu, nhà phụng trực, nhà quan cư đều là những công trình kiến trúc nửa Âu nửa
Á. Trên đỉnh cung Thiên Định có gắn cột thu lôi, bên trong cung có tượng của
Khải Định bằng đồng mạ vàng. Trong lăng có bắc một hệ
thống đèn điện, các tầng sân đều lát gạch hoa. Ảnh hưởng kiến
trúc Châu Âu ở đây thật rõ nét.
Cái làm nên giá trị của Lăng Khải Định không phải ở nghệ
thuật trang trí nội thất. Điện Khải Thành và cung
Thiên Định được điểm tô lộng lẫy và hài hòa bằng những công trình mỹ thuật kết
hợp chặt chẽ trang trí với điêu khắc và hội họa. Đó là những tác phẩm
khảm mảnh sành sứ và mảnh chai nhiều màu sắc thể hiện nhiều đề tài truyền thống
như các kiểu hoa văn, chữ triện, các loài cây cỏ, hoa lá chim thú...Những tác
phẩm khảm sành sứ này là những bức phù điêu rất tinh xảo, màu sắc tươi tắn,
trang nhã, hài hòa và sinh động gợi cho người xem nhiều hứng thú thẩm mỹ: Nghệ
thuật trang trí nội thất của Lăng Khải Định đã đánh dấu một bước phát triển
vượt bậc của nghệ thuật trang trí Việt Nam trong việc kết hợp kỹ thuật ghép ảnh
với kỹ thuật khắc chạm nổi và sử dụng chất liệu độc đáo là mảnh sành, mảnh sứ,
mảnh chai nhiều để thể hiện các đề tài trang trí truyền thống một cách thoải
mái, tự nhiên đầy chất thơ. Đây là bằng chứng về thiên tài
của những nghệ nhân trang trí nội thất truyền thống ở Huế đầu thế kỷ XX.
Huế - Di tích Đình làng Dương Nỗ
Di tích Đình làng Dương Nỗ
|
Cách Huế 7km về
Phía Đông, theo tuyến Quốc lộ 49 Huế - Thuận An, có một
vùng quê trù phú và nổi tiếng bởi truyền thống lịch sử - văn hóa lâu đời, đó là
Làng Dương Nỗ.
Dân gian ta có
câu: ”Cây đa - bến nước - sân đình” đó chính là cội
nguồn lịch sử, là truyền thống văn hoá nuôi dưỡng tâm hồn cao đẹp của bao thế hệ
con người Việt
Lúc đầu, đình có
cấu trúc xây dựng đơn giản bằng tranh, tre, nứa, lá. Trải qua
các đời chúa Nguyễn cho tới Triều Tây Sơn, quy mô kiến trúc của đình chỉ gồm một
gian hai chái. Mãi đến năm Gia Long thứ 7 (1808), Tri tượng Chánh trưởng
Tượng quân kiêm Cai tào vụ giám quân Nguyễn Đức Xuyên đã giúp dân làng xây dựng
lại ngôi đình từ tranh, tre thành ngôi đình có quy mô rộng lớn (năm gian hai
chái) bằng gỗ lim bền vững.
Ngày
nay, Đình Làng Dương Nỗ là một di tích tiêu biểu trong hệ thống di tích lưu niệm
về thời niên thiếu của Bác Hồ tại Thừa Thiên Huế.
Đặc biệt, trong thời gian Bác Hồ cùng anh trai Nguyễn Sinh Khiêm theo cha về sinh sống, học tập tại Làng Dương Nỗ (1898 -
1900).
Trải qua thời
gian và những biến động lịch sử, di tích Đình Làng Dương Nỗ có phần bị hư hỏng,
nhưng nhìn chung về mặt tổng thể và cấu trúc, vật dụng bên trong vẫn giữ nguyên
trạng như thời gian Bác Hồ về sống ở làng mà thường ngày Người vẫn đến chơi và
viếng cảnh.
Ngoài giá trị di
tích lưu niệm Bác Hồ, Đình Dương Nỗ còn mang những nét độc đáo, đặc trưng về kiến
trúc, nghệ thuật, văn hoá tiêu biểu của thiết chế văn hoá làng, xã Việt Nam
trên đất Huế. Cùng với nhà lưu niệm ở Dương Nỗ, Đình làng Dương Nỗ đã khắc ghi
trong trí nhớ Bác Hồ bao kỷ niệm tuổi thơ trong sáng, nơi đã có tác động không
nhỏ đến đời sống tình cảm và nhận thức của Người.
Đình làng Dương
Nỗ được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích văn hoá nghệ thuật cấp quốc
gia theo Quyết định số 3777/QĐ-BT ngày 23 tháng 12 năm
1995.
(Cinet)
Huế - Di tích Nhà Lưu niệm Bác Hồ ở
Dương Nỗ
Di tích Nhà lưu niệm Bác Hồ ở Dương
Nỗ
|
Nhà lưu niệm Bác Hồ ở Dương Nỗ thuộc
xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là ngôi
nhà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống từ năm 1898 - 1900, khi Người cùng anh trai
Nguyễn Sinh Khiêm theo cha về đây dạy học.
Năm
1898, sau khi thi Hội lần thứ hai không đỗ, cụ Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Chủ tịch
Hồ Chí Minh) đã được ông Nguyễn Sĩ Độ mời về nhà dạy học (tại làng Dương Nỗ).
Hai anh em Khiêm, Cung theo cha về đây, một phần để đỡ
gánh nặng kinh tế gia đình cho bà Loan, một phần để cụ Sắc có điều kiện dạy học
cho hai con. Tại lớp học chữ Hán của cha trong ngôi nhà này,
Người đã được cha chính thức khai tâm cho mình. Hai chữ khai tâm đầu đời
là chữ “Nhân, Nghĩa” như một lời răn dạy đầu tiên về đạo đức làm người. Hai năm
theo học cùng cha tại đây, Nguyễn Sinh Cung tiếp thu rất
nhanh, trở thành cậu học trò thông minh xuất sắc. Và những tri thức mà Người tiếp
thu được là nền móng vững chãi cho sự phát triển về học
vấn sau này.
Được về sống ở
Làng Dương Nỗ, một làng quê yên ả, thanh bình, giàu truyền thống văn hoá, Nguyễn
Sinh Cung có điều kiện hoà nhập với đời sống cộng đồng làng xã, được bao bọc bởi
tình cảm yêu thương chan hoà, nhân hậu bao dung của những người dân quê chất
phác, thuỷ chung; được chứng kiến cuộc sống lao động cần cù của những người
nông dân lam lũ. Đời sống đó đã góp phần hình thành nên cội
nguồn nhân bản trong tâm hồn Người.
Nhà
lưu niệm Bác Hồ ở Làng Dương Nỗ là một ngôi nhà tranh ba gian, hai chái, vách
ghép ván. Đồ đạc trong nhà đơn sơ, giản dị, ở
gian giữa kê bộ phản gỗ gõ để cụ Sắc ngồi dạy học, hai bộ phản khác kê hai bên
dành cho học trò ngồi học; ở góc trong, gian bên trái có kê giường gỗ, dát tre
là nơi Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung thường ngủ; góc trong gian bên phải
kê một chiếc rương để đựng đồ đạc. Hai chái hai đầu là nơi
sinh hoạt và cất trữ thực phẩm của ba cha con. Nối với
nhà chính là ngôi nhà ngang ba gian, mái lợp tranh, vách trát đất được sử dụng
làm bếp sinh hoạt của gia đình.
Ngôi nhà đã được
Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử Văn hoá cấp quốc gia theo Quyết định 296/QĐ-BT ngày 26.03.1990.
(Cinet)
Huế - Di tích Lưu niệm thời niên
Thiếu của Bác Hồ tại 112 -Mai Thúc Loan
Di tích Lưu niệm thời Niên thiếu Bác
Hồ tại ngôi nhà 112 - Mai Thúc Loan
|
Di tích Lưu niệm thời Niên thiếu
Bác Hồ tại ngôi nhà 112 - Mai Thúc Loan
Nhà lưu niệm Bác
Hồ ở 112 Mai Thúc Loan, phường Thuận Lộc, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Đây là ngôi nhà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống khi theo
gia đình vào Huế lần thứ nhất từ 1895 - 1901.
Năm
1894, cụ Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh) thi đỗ Cử nhân ở kỳ
thi Hương Nghệ An, năm 1895 vào Huế thi Hội nhưng không đỗ.
Để chuẩn bị cho kỳ thi sau, cụ xin vào học Trường Quốc Tử
Giám - Huế và được chấp nhận. Khi được nhận vào học ở
Trường Quốc Tử Giám, cụ Sắc được cấp học bổng, nhưng rất ít, nên không đủ để
sinh sống tại đất Kinh Đô. Vì vậy, cụ về quê bàn với gia đình đưa vợ con
cùng vào Huế để gia đình có điều kiện giúp đỡ ông học hành, và ông cũng có thời
gian chăm sóc, nuôi dạy các con. Cuối năm 1895, ông cùng vợ (bà Hoàng Thị Loan)
và hai con trai Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung ( Chủ
tịch Hồ Chí Minh) lên đường vào Huế, gửi lại con gái đầu lòng là Nguyễn Thị
Thanh cho bà ngoại. Đến Huế nhờ người quen giới thiệu, cụ đã
thuê được một gian nhà nhỏ ở đường Đông Ba (là ngôi nhà di tích hiện nay).
Tại đây, Cụ Nguyễn
Sinh Sắc hằng ngày đi nghe giảng sách, thức khuya dậy sớm chuyên tâm học hành,
Bà Hoàng Thị Loan quán xuyến việc gia đình, quay tơ dệt vải, chăm sóc con cái,
giúp chồng yên tâm học hành. Hai anh em Khiêm, Cung được cha, mẹ hướng dẫn, dạy
bảo làm việc nhà, quen với cuộc sống lao động. Nếp sống sinh hoạt gia đình giản dị, thanh bạch, chan hoà tình nhân
ái, yêu thương. Những năm tháng sống ở đây, cậu bé Nguyễn Sinh Cung đã
được học bài học đầu tiên về lòng yêu nước, về nỗi đau của một dân tộc bị mất
nước qua lời kể của cha hàng đêm về sự kiện thất thủ Kinh đô (23.5.Ất Dậu). Đặc
biệt ngôi nhà này là nơi bà Hoàng Thị Loan sinh người con thứ tư là cậu bé Nguyễn
Sinh Xin và cũng là nơi bà đã trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 33 vào ngày 22
tháng Chạp năm Canh Tý (10.2.1901).
Nhà lưu niệm Bác
Hồ tại 112 - Mai Thúc Loan là một ngôi nhà gỗ kiến trúc theo kiểu nhà rường
truyền thống Huế, rộng ba gian, gồm bốn vài cột, mái lợp ngói liệt, tường bao
quanh bằng gạch vồ, phía trước là hệ thống cửa bản khoa “thượng song, hạ đố”. Nối với nhà chính là nhà bếp, vách trát đất, mái lợp tranh. Ngôi nhà nằm trong một tổng thể nhà - sân - vườn hoàn chỉnh.
Ngôi nhà đã được
Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 74 /VH-QĐ ngày 02.02.1993.
(Cinet)
Huế - Di sản văn hoá Thế giới
Huế - Di sản văn hoá Thế giới
29/05/2007, 16h28
Đặc điểm:
Tại phiên họp lần thứ 17 của Uỷ ban Di sản thế giới (DSTG) từ ngày 6 đến
11/12/1993, UNESCO đã quyết định công nhận quần thể Di tích Huế là tài sản văn
hoá chung của nhân loại.
Ngày
2/8/1994, lễ trao văn bản công nhận đã được tổ chức trọng thể tại Hoàng cung Huế.
Một sự kiện trọng đại trong lịch sử văn hoá Việt Nam, tài sản đầu tiên của Việt
Nam được ghi tên vào danh mục Di sản thế giới, khẳng định giá trị mang tính
toàn cầu của quần thể di tích Huế.
|
|
Trong
biên bản phiên họp lần thứ 17, Uỷ ban Di sản Thế giới đã ghi về di sản Cố đô Huế
như sau:
“Quần
thể Di tích Huế là kinh đô của nước Việt
Quần
thể Di tích Huế trở thành Di sản Văn hoá Thế giới đã góp phần tích cực và xứng
đáng trong việc đem lại vận hội mới cho ngành du lịch Thừa Thiên Huế nói riêng
và du lịch Việt
Cinet
Huế - Di tích lịch sử Núi Bân
Di tích Lịch sử - Núi Bân
|
Núi Bân hiện ở tại xứ Cồn Mồ, thuộc xóm Hành, thôn Tứ Tây,
xã Thủy An, thành phố Huế. Núi có độ cao 41m, chiều
dốc 25o và cách kinh thành Huế trên 3km. Phía đông, núi Bân tiếp giáp với Động
Trọc và núi Ngự Bình, hai phía tây và bắc giáp thôn Trường Cỡi, xã Thủy Bằng,
phía nam là khu vực cư trú của dân làng Tứ Tây.
Núi
Bân vốn có nhiều tên gọi khác nhau, nhân dân địa phương thường gọi là Đông Tầng,
Ba Tầng, Tam Tầng hoặc Ba Vành. Trong
Hoàng Lê Nhất thống chí, bản dịch của Ngô Tất Tố năm 1942 gọi là núi Sam hoặc
có lúc gọi là núi Bân. Tài liệu của Pirey trong
B.A.V.H năm 1941 gọi là hòn Thiên.
Núi
Bân gắn liền với sự kiện Nguyễn Huệ lập đàn Nam Giao tế trời đất và tuyên bố
lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung.
Trong khí thế tưng bừng của đội quân bách chiến bách thắng, chỉ trong vòng 5 tuần
lễ, quân Tây Sơn đã vượt qua gần 700km đường rừng núi hiểm trở, trèo đèo vượt
suối hành quân thần tốc, tiêu diệt đạo quân xâm lược Mãn Thanh, thu giang sơn về
một mối.
Lợi
dụng một quả đồi không cao lắm, đàn được xẻ làm ba tầng, tạo thành ba khối hình
nón cụt chồng lên nhau. Ngay giữa đỉnh đồi là tầng thứ ba,
bề mặt rất phẳng, chu vi 52,75m. Theo
bốn hướng đi của đàn là 4 con đường, bề rộng của các con đường này càng lên đến
đỉnh càng nhỏ hẹp lại.
Là một vị trí nằm
ở phía Nam thành Phú Xuân, dựa vào địa thế của quả đồi không cao nên dễ vận động
và có thể xây dựng đàn hoàn thành nhanh chóng, xung quanh là cánh đồng khá rộng,
đủ sức tập kết hàng vạn quân. Chính vì những yếu tố địa lý và quân sự đặc biệt
của khu vực này nên Nguyễn Huệ đã chọn núi Bân để lập đàn Nam Giao, trịnh trọng
tuyên bố lên ngôi Hoàng đế và phát binh thần tốc ra Bắc.
Khu
di tích này đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc
gia năm 1988.
(Cinet)
Huế - Di tích Lưu niệm Danh nhân
Di tích Lưu niệm Danh nhân
|
Khu di
tích lưu niệm Phan Bội Châu:
Phan Bội Châu là
nhà yêu nước, nhà tư tưởng, đồng thời là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng của Việt
Thành phố Huế
nơi Phan Bội Châu đã đặt những bước chân đầu tiên trên con đường vận động cứu
nước và cũng là nơi nhà chí sĩ đã sống qua những năm tháng cuối đời. Trải qua
bao biến đổi, nhưng các di tích lưu niệm Phan Bội Châu được bảo tồn và phát huy
ở Huế đã có những giá trị rất lớn về mặt lịch sử, văn hóa và là một di sản vô
cùng quý giá đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử lưu niệm danh nhân
quốc gia năm 1990.
(Cinet)
Huế - Di tích Trường Quốc học Huế
Di tích Trường Quốc học Huế
|
Trường Quốc Học tọa lạc bên bờ Sông Hương, trên đường Lê
Lợi, thuộc phường Vĩnh Ninh, thành phố Huế. Là địa chỉ hấp
dẫn và thuận lợi cho khách tham quan từ muôn nơi về với Huế.
Trường Quốc Học
được thành lập theo dụ ngày 17 tháng 9 năm Thành Thái thứ 8 (23.10.1896) và Nghị
định ngày 18.11.1896 của phủ Toàn quyền Đông Dương. Đây là một ngôi trường Pháp
- Việt chính yếu của toàn xứ Đông Dương. Lúc đầu trường chỉ là những dãy nhà
tranh vốn là trại lính thuỷ quân hoàng gia được cải tạo lại.
Sau khi thi đỗ
Phó Bảng (1901), tháng 5 năm 1906 cụ Nguyễn Sinh Huy (Nguyễn Sinh Sắc) vào Huế
nhậm chức Thừa biện bộ Lễ và đã mang theo hai con trai của mình là Nguyễn Tất
Thành, Nguyễn Tất Đạt cùng vào đây sinh sống, học tập. Lần này cụ Huy đã cho
hai con vào học trường Pháp - Việt Đông Ba. Sau đó Nguyễn Tất
Thành đã thi vượt cấp và được tuyển vào Trường Quốc Học.
Trong thời gian
học ở trường này, cậu học trò Nguyễn Tất Thành đã có điều kiện tiếp thu nền văn minh phương Tây và hiểu rõ hơn bản chất khai hoá
mị dân của thực dân Pháp xâm lược, với khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Đặc biệt trong khoảng thời gian này, các phong trào yêu nước của
các sỹ phu nổ ra rầm rộ đã cuốn hút và tác động rất lớn đến nhận thức của Nguyễn
Tất Thành. Tháng 4 năm 1908, phong trào chống thuế của
nông dân miền Trung nổ ra mạnh mẽ. Không ngần ngại,
Nguyễn Tất Thành đã tham gia phong trào chống thuế cùng với nông dân. Sự kiện này đánh dấu bước khởi đầu cho sự nghiệp đấu tranh yêu nước
của Nguyễn Tất Thành. Từ đó cậu học trò Nguyễn Tất
Thành đã tạm biệt mái Trường Quốc Học đi dần vào Phía
Trường Quốc Học
Huế đã chứng kiến những tháng ngày miệt mài học tập và hoạt động sôi nổi của
Nguyễn Tất Thành, đồng thời là chiếc nôi đào tạo, bồi dưỡng biết bao lớp nhân
tài cho đất nước.
Ngày
nay Trường Quốc Học Huế cũng là một trong ba ngôi trường phổ thông trung học dẫn
đầu sự nghiệp giáo dục quốc gia.
Chính vì thế,
Trường Quốc Học Huế đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử
Văn hoá cấp quốc gia theo Quyết định ngày 26.3.1990.
(Cinet)
Huế - Kinh thành Huế
Kinh thành Huế
30/05/2007, 14h33
Vị trí: Kinh thành Huế
nằm ở bờ bắc sông Hương và thuộc địa phận Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Đặc điểm:
Kinh thành Huế được xây dựng theo kiến trúc của phương
Tây kết hợp một cách tài tình với kiến trúc thành quách phương Đông.
Huế
từ xa xưa đã được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của xứ "Ðàng
Trong" và chính thức trở thành kinh đô dưới triều Tây Sơn. Trong gần 4 thế
kỷ, Huế đã trở thành một quần thể di tích kiến trúc và thắng cảnh vĩ đại, tổng
thể di tích này đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.
Kinh thành Huế - tổng thể kiến trúc
của Cố đô Huế được xây dựng trên một mặt bằng diện tích hơn 500ha và được giới
hạn bởi 3 vòng thành theo thứ tự ngoài lớn, trong nhỏ:
Kinh Thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành.
Tổng
thể kiến trúc này dùng núi Ngự Bình làm tiền án và dùng hai hòn đảo nhỏ trên
sông Hương là Cồn Hến và Dã Viên làm 2 yếu tố phong thuỷ rồng chầu hổ phục (Tả
Thanh Long, Hữu Bạch Hổ) để bảo vệ Cố đô.
Kinh
Thành Huế: Do vua Gia Long xây dựng từ năm 1805 và sau này được vua Minh Mạng
tiếp tục hoàn thành vào năm 1832. Tại đó các vua triều Nguyễn
đã cho xây dựng khá nhiều thành quách, cung điện và các công trình của hoàng
gia. Trải qua gần 200 năm khu kinh thành hiện nay còn
hầu như nguyên vẹn với gần 140 công trình xây dựng lớn nhỏ.
Kinh
thành hình vuông với chu vi 10km, cao 6,6m, dày 21m, gồm có 10 cửa để ra vào. Xung quanh và ngay trên thành có thiết lập 24 pháo đài để phòng thủ.
Ngoài ra còn có một cửa phụ thông với Trấn Bình Ðài gọi là
Thái Bình Môn.
Hoàng
Thành (Ðại Nội): Nằm ở khoảng giữa kinh thành là nơi đặt các cơ quan cao nhất của
chế độ quân chủ và là nơi thờ tự các vua chúa đã quá cố. Hoàng Thành có mặt bằng
gần vuông, mỗi bề khoảng 600m, xây bằng gạch, cao 4m, dày 1m, xung quanh có hào
bảo vệ, có 4 cửa để ra vào, riêng Ngọ Môn chỉ dành để cho vua đi. Ðại Nội gồm
có hơn 100 công trình kiến trúc đẹp được chia ra nhiều khu vực:
Từ Ngọ Môn đến Điện Thái Hoà: nơi cử
hành các lễ lớn của triều đình.
Triệu
Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu và Điện Phụng Tiên: nơi thờ các vua chúa
nhà Nguyễn.
Phủ
Nội Vụ: nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ dùng cho hoàng gia.
Vườn
Cơ Hạ và Điện Khâm Văn: nơi các hoàng tử học tập và chơi đùa.
Tử
Cấm Thành: là vòng thành nằm trong Hoàng Thành ngay sau lưng Điện Thái Hoà. Tử Cấm Thành dành riêng cho vua và gia đình vua. Tử Cấm Thành được xây dựng năm 1804. Thành cao 3,72m xây bằng
gạch, dày 0,72m, chu vi khoảng 1.230m, phía trước và phía sau dài 324m, trái và
phải hơn 290m, bao gồm gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ và có 7 cửa ra vào. Ðại Cung Môn là cửa chính ở mặt tiền chỉ dành cho vua đi vào.
Cần Chánh (nơi vua làm việc hàng ngày). Càn Thành (nơi vua ở), Cung Khôn Thái
(chỗ ở của Hoàng Quý Phi). Duyệt Thị Ðường (nhà hát), Thượng Thiện (nơi nấu ăn cho vua), Thái Bình Lâu (nơi vua đọc sách)…
Ngoài
ra Huế còn nổi tiếng bởi khu lăng tẩm của các vua nhà
Nguyễn. Bảy lăng, mỗi lăng mang một sắc thái riêng
nhưng đều là những kỳ công tạo tác của con người phối hợp với cảnh trí thiên
nhiên hùng vĩ tươi đẹp và thơ mộng của xứ Huế.
Cố
đô Huế với sông Hương, núi Ngự và các cung điện lâu đài, lăng tẩm, đền, miếu,
chùa chiền đã có hàng mấy trăm năm lịch sử giờ đây đang được nhân dân Việt Nam
cùng cộng đồng Quốc tế đóng góp công sức và tiền của để tôn tạo tu bổ giữ cho
kiến trúc cố đô Huế mãi mãi là di sản văn hoá của nhân loại.
Cinet
Khánh Hoà - Khu tưởng niệm bác sĩ
Alexandre Yersin
Khu tưởng niệm bác sĩ Alexandre
Yersin
31/05/2007, 09h22
Địa điểm:
Tỉnh Khánh Hoà có 3 khu tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin tại thành phố Nha
Trang và huyện Diên Khánh.
Ðặc điểm:
Khu tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin là công trình xây dựng để tưởng niệm nhà
bác học tài ba - Alexandre Yersin (1863 - 1943), đã sống và cống hiến hết mình
cho khoa học của nhân loại.
Ba
khu tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin:
-
Thư viện của Bác sĩ Yersin tại viện Pasteur Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
-
Chùa Linh Sơn, xã Suối Cát, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa (phòng làm việc của
Bác sĩ ở Suối Dầu trước đây).
-
Phần mộ của Bác sĩ Yersin, xã Suối Cát, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
Năm
1891 ông đến Nha Trang xây dựng cơ sở nghiên cứu, thí nghiệm vi
trùng học đầu tiên ở Việt
Sau
hơn 50 năm sống và làm việc vì khoa học ở Viện Pasteur Nha Trang (1891 - 1943)
Yersin đã cống hiến cho khoa học 55 công trình nghiên cứu có giá trị.
Các
chức vụ ông đã đảm nhận:
-
Viện trưởng Viện Pasteur Nha Trang.
-
Viện trưởng Viện Pasteur Ðông Dương.
-
Hiệu trưởng Trường Ðại Học Y Khoa Hà Nội.
-
Tổng thanh tra các Viện Pasteur Ðông Dương.
-
Viện sỹ Viện Hàn Lâm Khoa Học Pháp.
-
Chủ tịch danh dự Hội Ðồng Y Khoa Viện Pasteur Pari.
Cinet
Khánh Hoà - Tháp Chàm
Tháp Chàm Poklaung
|
Tháp
nằm ở phía Tây thị xã Phan Rang, gần ga xe lửa mang tên ga Tháp Chàm, cách
trung tâm thành phố khoảng 7km. Đây là một nhóm gồm 6 tháp xây dựng vào thế kỷ
13, nay còn lại 4 tháp tương đối nguyên vẹn.
Tháp chính thờ vua Poklaung GiaRai. Theo truyền thuyết đây là ông vua bị bệnh hủi nhưng
rất dũng cảm. Tháp này còn khá nguyên vẹn có hình tứ giác.
Tháp cao 21,59m. Trong quá trình khai quật nghiên cứu
và tu sửa tháp trước kia người Pháp đã tìm thấy một
số bát bằng vàng, bạc và đồ trang sức. Gần đầy khi tu sửa
tháp, ngành khảo cổ Việt
Kon Tum - Chiến trường Đăk Tô - Tân
Cảng
Chiến trường Đăk Tô - Tân Cảnh
31/05/2007, 09h29
Vị trí: Chiến trường Đắk
Tô - Tân Cảnh thuộc huyện Đắk Tô, tỉnh Kon Tum, cách
thị xã Kon Tum 42km về phía bắc.
Đặc điểm:
Nơi diễn ra trận đánh ác liệt trong chiến tranh chống Mỹ vào năm 1972.
Đắk
Tô trở nên một địa danh quen thuộc đối với các cựu chiến
binh Mỹ đã từng tham gia cuộc chiến tranh tại Việt
Du
khách đến thăm quan sẽ thấy sừng sững giữa trung tâm thị trấn Đăk Tô đài tưởng niệm và tấm bia lớn ghi lại chiến tích lẫy lừng
của chiến trường Đăk Tô - Tân Cảnh.
Cách
Đắk Tô 5km về phía nam là đồi Charlie cũng là một di
tích chiến trường xưa của tỉnh Kon Tum.
Cinet
Lạng Sơn - Ải Chi Lăng
Ải Chi Lăng
|
Ải
Chi Lăng thuộc xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng (Lạng Sơn) nằm trên đường 1A Hà Nội
- Lạng Sơn, cách Hà Nội chừng 110km và cách biên giới Việt - Trung 60km.
Ải Chi Lăng là một thung lũng hẹp hình bầu dục, xung quanh bốn bề núi cao, có
sông Thương chảy qua và nhiều núi lô nhô giữa lòng thung lũng hẹp. Ải Chi Lăng
có 2 cửa: cửa phía Bắc gọi là Quỷ môn quan tức là cửa ải con quỷ vì bọn giặc
phương Bắc tràn sang nước ta thường qua cửa này. Cửa phía
Tại Ải Chi Lăng này, năm 981 Lê Hoàn đã phá quân Tống giết
chết bọn tướng cầm đầu. Năm 1076, phò mã Thân Cảnh Phúc đã chặn đánh 30
vạn quân Tống do tướng Quách Quỳ cầm đầu. Năm 1285, Nguyễn
Địa Lê đã giết chết tên việt gian Trần Kiệm trong cuộc kháng chiến chống Nguyên
- Mông lần thứ hai. Năm 1427 của nghĩa quân Lam Sơn chém Liễu Thăng, tóm
cổ Hoàng Phúc, giết 10 vạn quân Minh, đập tan ý đồ xâm lược của chúng.
Ngày nay Ải Chi Lăng là một di tích lịch sử có phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ nên du khách qua đây ai cũng phải dừng chân.
Lạng Sơn - Di tích chùa Tam Giáo,
Động Nhị Thanh
Di tích chùa Tam Giáo, Động Nhị
Thanh
|
Di tích Chùa Tam
Giáo - Động Nhị Thanh (Lạng Sơn) gắn với danh nhân Ngô Thì Sĩ khi ông được cử
làm quan Đốc trấn Lạng Sơn từ năm 1777 đến 1780. Trong thời gian ngắn ngủi này,
ngoài việc phát triển các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, ông đã có công phát
hiện và tôn tạo 8 cảnh đẹp, trong đó có
Chùa Tam Giáo, Động Nhị Thanh.
Động Nhị
Thanh ở bên dưới Chùa Tam Giáo là hang đá tự nhiên, từ cửa trước đến cửa sau
dài 500m. Tương truyền Động Nhị Thanh là nơi ông thường cùng bạn bè đến làm
thơ. Tại cửa động ông cho xây đình duyệt quân, có suối Thụ Phúc chảy
từ cửa động ra ao Nhất Bích. Điều quý giá ở di tích này là hệ thống văn bia tạc trên vách đá của các văn nhân, quan lại qua các thời
kỳ lưu lại nơi đây.
Lễ hội Khu
di tích Nhị Thanh - Chùa Tam Giáo diễn ra vào ngày 15 - 17/01 hằng năm, với nhiều
nghi lễ tập tục truyền thống đặc sắc của nhân dân xứ Lạng.
Nằm trong Khu di tích này, Chùa Tam Giáo - Động Nhị Thanh đã được Bộ Văn hóa -
Thông tin xếp hạng di tích văn hóa từ năm 1962.
(Cinet)
Lào Cai -
Bãi đá cổ Sa Pa
Bãi đá cổ Sa
Pa
31/05/2007, 09h53
|
|
Vị trí: Bãi đá cổ Sa Pa
nằm trong thung lũng Mường Hoa, xã Hầu Thào, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, cách thị
trấn Sa Pa khoảng 8km về phía đông nam.
Ðặc điểm:
Đây là di sản của cư dân người Việt cổ, gồm những khối đá với các hình chạm khắc
từ xa xưa, nằm rải rác trên những thửa ruộng bậc thang của người dân bản Pho.
Bãi
đá cổ
Các
nhà khoa học giả thiết đó là hình bản đồ cổ của người Mông hoặc gần như là cuốn
sách cổ giới thiệu về những trận đánh ngày xưa... Có rất nhiều cách giải mã
khác nhau của các nhà khoa học khi đến nghiên cứu Bãi đá cổ Sa Pa. Tuy nhiên, tất
cả những cách giải mã đó mới chỉ dừng lại ở giả thiết. Bãi đá cổ
Cinet
Lâm Đồng - Nhà thờ Cam Ly
Nhà thờ Cam Ly
31/05/2007, 09h35
Vị trí:
Nhà thờ Cam Ly nằm trên một quả đồi rất gần thác Cam Ly, thuộc thành phố Đà Lạt.
Đặc điểm:
Nhà thờ Cam Ly có một kiến trúc độc đáo theo lối nhà
rông của đồng bào Tây Nguyên.
Trong
số gần 100 công trình kiến trúc công giáo xuất hiện ở Ðà Lạt từ thập niên 1920
đến thập niên 1960, nhà thờ Cam Ly được xây dựng riêng cho đồng bào các dân tộc
thiểu số, vì thế nó mang một sắc thái độc đáo khác hẳn với các giáo đường dành
cho người Kinh. Những người tạo tác nên ngôi nhà thờ đã thể hiện sự "hội
nhập văn hóa" qua nghệ thuật kiến trúc khi cho gương mặt chúa trời hòa nhập
với gương mặt của Yàng (trời) mà những người dân nơi đây đã nghìn năm sùng bái.
Khai
sinh ra ý tưởng về ngôi nhà chung của Chúa và Yàng là linh mục người pháp
Boutary và người thể hiện thành công ý tưởng này là nhà thầu Nguyễn Thanh Hồ.
Công trình được khởi công vào cuối năm 1959 và hoàn thành tám năm sau đó. Nhìn ngang,
hai mái giáo đường giống như lưỡi rìu, dốc đứng 17m, được lợp bằng 80.000 viên
ngói với tổng trọng lượng tương đương 90 tấn. Ðể chịu đựng được
sức nặng của ngôi nhà với cột, kèo, giằng bằng bê-tông, sắt và gỗ, móng của
công trình đã được gia cố hết sức kỹ lưỡng. Riêng phần
móng nhà thầu đã phải cật lực làm trong vòng nửa năm.Trước cổng chính nhà thờ
là hai hình tượng hổ và phượng hoàng - những loài vật quen thuộc trong hiện thực
và trong ý thức của đồng bào thiểu số. Hổ tượng trưng
cho sức mạnh và phượng hoàng thể hiện cho sự tinh khôn. Mặt khác, các nhà tạo tác cũng ngầm ví von các cư dân Thượng có bản
tính vốn như chúa sơn lâm nhưng đã trở nên tốt lành, thanh dịu như chim phượng
nhờ các tín điều tôn giáo. Cùng tư duy đó, nội thất thánh đường còn xuất
hiện nhiều hình ảnh các loài vật khác thể hiện bản tính của chúng như: sự trong
sáng của nai, sự gần gũi của chim và cá... Ðặc biệt dưới
chân thánh giá, bên cạnh cung thánh bằng gỗ thông có treo ba đầu trâu theo thứ tự cao thấp. Trâu là linh vật mà người thiểu số ở
Tây Nguyên thường dùng làm vật phẩm để "giao tiếp" với Yàng của họ,
trong trường hợp này là kính dâng Thiên Chúa như một thông điệp biểu lộ lòng
sùng kính.Sau ba khung cửa lớn là nội thất giáo đường với diện tích gần 400m²,
một không gian vừa u huyền, thâm nghiêm vừa khoáng đạt, phóng túng. Cảm giác đó
có được là do hiệu quả các giải pháp kiến trúc. Nối với những
bức tường lửng có độ cao khoảng 3m được xây bằng đá chẻ là hệ thống cửa kính mầu
xanh-nâu-vàng trong các khung gỗ. Các khung cửa liền nhau và giáp mái
này cùng với 20 vì kèo tương ứng đều được cách điệu từ hoa văn Tây Nguyên mà chủ
đạo là hình vuông và hình tam giác - tượng trưng cho mặt trăng và mặt trời
trong môtip bản địa về quan niệm vũ trụ. Ðối xứng phải trái là 16 bức tranh đá
trong đó có 14 bức diễn tả các chặng thương khó của Chúa Jesus và ngày ngài thọ
nạn, phục sinh...Ở đây, cùng với nghệ thuật sắp đặt và giải pháp kiến trúc, các
nhà tạo tác đã kết hợp hài hòa và thành công giữa tư duy mộc mạc, tự nhiên của
đồng bào các dân tộc thiểu số với triết lý tôn giáo nhân bản và sâu sắc.
Cinet
Lâm Đồng - Thiền viện Trúc Lâm
Thiền viện Trúc Lâm
31/05/2007, 09h44
|
|
Vị trí: Thiền viện Trúc
Lâm tọa lạc bên hồ Tuyền Lâm trên núi Phượng Hoàng, thuộc phường 3 thành phố Ðà
Lạt.
Đặc điểm:
Ðây là ngôi chùa to nhất, bề thế nhất ở Ðà Lạt hiện nay.
Chùa
do hòa thượng Thích Thanh Từ tạo dựng từ đầu thập niên 90, chính thức khởi công
xây dựng ngày 08/04/1993 và khánh thành ngày 08/02/1994. Thiền viện có diện
tích 24,5 ha; được chia thành 3 khu riêng biệt với sự
tham gia thiết kế của kiến trúc sư nổi tiếng Ngô Viết Thụ (người thiết kế Dinh
độc lập - nay là Dinh Thống nhất, thành phố Hồ Chí Minh).
Những
lúc đông nhất, thiền viện có hàng ngàn tăng ni, phật tử
đến theo học về thiền. Đây là một thiền viện nghiên cứu về
Thiền tông lớn nhất ở Việt
Ngoài
ý nghĩa là một ngôi chùa lớn, một viện thiền học, Trúc Lâm còn là một điểm tham
quan lý tưởng cho du khách khi đến với thành phố cao nguyên do được tổ chức tốt
và có vị trí khá đẹp - nhìn ra hồ Tuyền Lâm, núi Voi. Ngoài ngôi chùa lớn này,
Ðà Lạt còn có hàng chục chùa nhỏ khác như Linh Quang (đường Ngô Quyền), Trúc
Lâm (đường Phạm Hồng Thái), Ngọc Tín (Sương Nguyệt Ánh)... mà khi kết hợp lại
có thể cho du khách một tour du lịch tín ngưỡng - tìm hiểu kiến trúc độc đáo.
Cinet
Long An -
Cụm di tích Bình Tả
Cụm di tích Bình Tả
31/05/2007, 09h57
Vị trí: Cụm di tích
Bình Tả nằm tại ấp Bình Tả, xã Ðức Hoà Hạ, huyện Ðức Hoà, tỉnh Long An.
Đặc điểm:
Nằm trong một quần thể di tích từ thời tiền sử tới sơ sử được phân bố theo các
trục lộ cổ và sông Vàm Cỏ Ðông, cụm di tích này thuộc nền văn hoá Óc Eo - Phù
Nam có niên đại từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên.
Cụm
di tích kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Bình Tả (gồm Gò Xoài, Gò Ðồn và Gò Năm
Tước) cách thị xã Tân An 40km về phía đông bắc.
Có
ba di tích trong cụm đã được khai quật: di tích Gò Năm Tước, Gò Xoài và Gò Ðồn
được phân bố trên một địa bàn tương đối gần nhau. Ngôi đền Gò Xoài nằm ở độ sâu
1,70 -1,90m có thể coi là địa điểm hành lễ của dân Phù
Các
kiến trúc được phát hiện tại cụm di tích Bình Tả là các đền thờ thần Siva, thuộc
tôn giáo Bà La Môn, xuất hiện ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên được
truyền bá mạnh mẽ vào miền Nam Ðông Dương từ đầu Công nguyên. Nằm trong một tổng
thể di chỉ khảo cổ ở Ðồng Tháp Mười và vùng phù sa cổ Ðức Hoà (Long An), di
tích Óc Eo - Bình Tả được xây dựng nhằm mục đích tôn giáo đồng thời cũng đóng
vai trò là một trung tâm chính trị, văn hoá của Nhà nước Phù Nam - Chân Lạp thời
cổ đại.
Cinet
Nam Định - Di tích nhà Trần
Di tích nhà Trần
31/05/2007, 10h11
Vị trí: Di
tích Nhà Trần thuộc phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định,
cách trung tâm thành phố 3km.
Đặc điểm:
Đây là quê hương của nhà Trần, nơi sinh ra Trần Hưng Đạo, vị anh hùng dân tộc.
Khu di tích rộng tới hàng chục héc ta với đền Thiên Trường, Cố Trạch thờ các
vua Trần và Trần Hưng Đạo, chùa tháp Phổ Minh…
Sử
cũ cho biết, vào năm 1239, nhà vua cho xây hành cung ở làng quê mình để lúc thư nhàn về thăm. Đến năm 1262, Thượng Hoàng đến chơi hành
cung ở Tức Mặc, ban yến tiệc cho dân và thăng làng Tức Mặc lên là phủ Thiên Trường,
dựng tiếp cung Trùng Quang để cho các vua đã nhường ngôi (Thái Thượng hoàng) về
ở. Phía tây cung đình là chùa Phổ Minh, lại dựng một cung riêng cho các vua
đương triều mỗi khi về thăm Thái Thượng hoàng thì về nghỉ tại đó. 700 năm
trôi qua, cung điện cũ không còn nữa, nay có ngôi đền Thiên Trường thờ 14 vị
vua Trần, đền Cố Trạch thờ Trần Hưng Đạo, chùa Phổ Minh với tháp Phổ Minh nổi
tiếng.
Cinet
Nghệ An -
Mộ bà Hoàng Thị Loan
Mộ bà Hoàng Thị Loan
31/05/2007, 10h02
Vị trí:
Mộ bà Hoàng Thị Loan nằm trên núi Động Tranh, huyện
Đặc điểm:
Mộ bà được xây năm 1985, nhân kỷ niệm ngày sinh lần thứ 95 của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Bà
Hoàng Thị Loan (1868 - 1901) là người mẹ Việt
Cinet
Nghệ An -
Quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh
Quê hương Hồ Chí Minh
|
|
|
Vị trí:Quê
hương Chủ tịch Hồ Chí Minh thuộc xã Kim Liên, huyện
Đặc điểm: Là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời và sống những
năm tháng niên thiếu cùng bà con nội ngoại thân thiết.
Làng
Sen (quê nội)
Từ
thành phố Vinh theo quốc lộ 46 đến cây số 13 rẽ vào
con đường đất đỏ rợp bóng cây bạch đàn và phi lao, đến làng Sen, tên chữ là Kim
Liên (bông sen vàng). Làng có những hồ sen hai bên đường
làng. Ngôi nhà của Chủ tịch Hồ Chí Minh sống thuở nhỏ
dựng bằng tre và gỗ, 5 gian, lợp tranh. Trong nhà có những đồ dùng giống
như các gia đình nông dân: phản gỗ, chõng tre, cái võng gai, bàn thờ... Nhà được
dựng năm 1901 do công sức và tiền của dân làng góp lại làm tặng ông Nguyễn Sinh
Sắc, thân phụ của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi ông Sắc đỗ Phó Bảng - sự kiện mang lại
niềm tự hào cho dân làng.
Làng
Chùa (quê ngoại)
Cách
làng Sen 2km, là một làng quê bình dị như bao làng quê của Việt Nam, nhưng lại
nổi tiếng ở trong và ngoài nước vì đây là quê ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
là nơi người cất tiếng khóc chào đời và được mẹ nuôi dạy trong những năm ấu
thơ.
Sau
cánh cổng tre rộng mở, du khách bước giữa hai bờ mận hảo vào thăm hai ngôi nhà
lợp tranh bình dị.
Ngôi
nhà thờ
Ngôi
nhà thờ nhỏ ba gian ở phía sau nhà ở của cụ Hoàng Đường (ông ngoại của Bác) được
cụ Hoàng Đường lập ra từ năm 1881 để thờ cúng cố nội, ông nội và thân phụ. Nhà được tu sửa và lợp ngói từ 1930 như ta thấy hiên nay.
Bàn
thờ được bài trí giản dị, trang nghiêm. Trên đôi quyết trước nhà thờ có đôi câu đối về uy danh của dòng họ.
Ngôi
nhà cụ Hoàng Đường
Ngôi nhà của cụ Hoàng Đường có 5
gian và hai chái,trong đó ba gian ngoài thông với nhà
thờ rất thoáng mát. Bộ phản kê ở gian thứ nhất là nơi cụ Đường dạy học; gian
thứ hai có bộ tràng kỷ bằng tre, chiếc án thư với
những dụng cụ dạy học như bút lông, nghiên mực... Gian thứ ba
kê bộ phản là nơi nghỉ ngơi của thày và trò. Hai gian còn lại
là nơi nghỉ của cụ bà và nơi sinh hoạt chung
của gia đình.
Cinet
Ninh Bình - Cố Đô Hoa Lư
Cố ĐôHoa Lư
|
Hoa
Lư là kinh đô của nước Đại Cồ Việt (tên xa xưa của nước Việt Nam) có cách đây
gần 10 thế kỷ thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, cách thủ đô
Hà Nội gần 100 km về phía Nam.
Cố đô Hoa Lư trước đây rộng khoảng 300 ha được bao quanh bởi hàng loạt núi đá
vòng cung, cảnh quan hùng vĩ. Khoảng trống giữa các sườn
núi được xây kín bằng đất ken gạch, chân thành có gạch bó, đắp cao từ 8-10 mét.
Kinh đô Hoa Lư bao gồm Thành Ngoại, Thành Nội và Thành
Thành Ngoại rộng khoảng 140 ha thuộc địa phận thôn Yên Thành
xã Trường Yên. Đây là cung điện chính mà khu vực đền
Đinh, đền Lê là Trung tâm và cũng chính là nơi vua Đinh Tiên Hoàng cắm cờ nước.
Trước cung điện có núi Mã Yên tương truyền vua Đinh lấy núi
làm án.
Thành Nội thuộc thôn Chi Phong, xã Trường Yên có tên là Thư Nhi xã, nơi nuôi
trẻ em và những người giúp việc trong cung đình.
Thành
Phía Đông kinh thành có núi Cột cờ, nơi có lá quốc kỳ Đại Cồ Việt, có ghềnh
tháp nơi vua Đinh duyệt thuỷ quân, hang Tiền nơi lưu giữ tài sản quốc gia,
động Thiên Tôn - tiền đồn của Hoa Lư và là hang nhốt hổ, báo để xử kẻ có tội.
Đến đời Lê Hoàn đã cho xây thêm nhiều cung điện lộng lẫy: điện Bách Thảo Thiên
Tuế, điện Phong Lưu ở phía Đông, điện Vinh Hoa ở phía Tây, điện Bồng Lai bên
tả, điện Cực Lạc bên hữu, lầu Hoả Vân và điện Trường Xuân, điện Long Lộc được
lợp ngói làm bằng bạc.
|
Trải qua mưa nắng hơn 10 thế kỷ, các di tích lịch sử ở cố đô
Hoa Lư hầu như bị tàn phá, đổ nát. Hiện nay chỉ còn
lại đền vua Đinh và đền vua Lê được xây dựng vào thế kỷ XVII.
Đền vua Đinh được xây theo kiểu "Nội công ngoại
quốc" gồm 3 toà: Bái đường, Thiên
Hương-
nơi thờ tứ trụ triều đình của nhà Đinh, Chính Cung - thờ vua Đinh (ở giữa) bên
trái là tượng Nam Việt Vương Đinh Liễn (con trai cả vua Đinh), bên phải là
tượng Đinh Toàn và Đinh Hạng Lang (con thứ vua Đinh).
Cách
đền vua Đinh 500 mét là đền vua Lê, thờ Lê Đại Hành (còn gọi là Lê Hoàn). Đền
Lê qui mô nhỏ hơn nhưng cũng có ba toà: Bái Đường, Thiên Hương- thờ Phạm Cự Lương
người đã có công đưa Lê Hoàn lên ngôi, Chính Cung - thờ Lê Hoàn (ở giữa), bên
phải là Lê Ngọa Triều (con trai vua Lê), bên trái là Hoàng Hậu Dương Vân Nga. ở trên đỉnh núi Mã Yên Sơn hiện có lăng mộ của vua Đinh và
vua Lê.
Ninh Thuận - Tháp Pôklông Garai
Tháp Pôklông Garai
01/06/2007, 07h58
|
|
Vị trí:Tháp nằm ở phía
tây thị xã Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận gần ga xe lửa mang tên ga Tháp Chàm,
cách trung tâm thị xã khoảng 7km.
Đặc điểm:
Tháp Pôklông Garai: được xem là trung tâm điểm rực rỡ nhất của nền văn minh
Chăm, do vua Chế Mân chỉ đạo xây dựng từ cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14 đạt đỉnh
cao trong kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc của dân tộc Chăm.
Ðây
là một nhóm gồm 6 tháp nay còn lại 4 tháp tương đối nguyên vẹn.
Tháp
chính thờ vua Pôklông Garai (1151 - 1205). Ông đã có nhiều
công lao to lớn đối với dân tộc Chăm ở vùng đất phía
nam mới được khai khẩn, nhất là trên lĩnh vực thuỷ lợi (đập Nha Trinh, đập Sông
Cấm ở phía tây Phan Rang). Hơn thế nữa dưới triều vua Pôklông Garai trị vì, đất
nước Chăm được hưng thịnh, nhân dân được ấm no. Theo truyền
thuyết, đây là ông vua bị bệnh hủi nhưng rất dũng cảm.
Tháp
này còn khá nguyên vẹn có hình tứ giác. Tháp cao 21,59m. Trong quá trình khai quật nghiên cứu và tu
sửa tháp trước kia người Pháp đã tìm thấy một số bát bằng
vàng, bạc và đồ trang sức. Gần đầy khi tu sửa tháp, ngành khảo
cổ Việt
Ở
mỗi cạnh, mỗi tầng và mỗi mặt của từng tháp được trang trí bằng các họa tiết
đá, gốm với đủ loại hình người, hình đuôi rồng, hình lá, hình bò thần...Tháp
Pôklông Garai còn lại tương đối nguyên vẹn, quý và hiếm trên đất nước ta và
trên thế giới về loại hình kiến trúc này và đã được Bộ Văn hóa thông tin công
nhận di tích năm 1979.
Cinet
Phú Thọ - Khu di tích đền Hùng
Khu di tích đền Hùng
01/06/2007, 08h05
|
|
Vị trí: Nằm trên núi
Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
Đặc điểm:
Đền được xây vào thế kỷ 15, tương truyền nơi đây người con trưởng của Lạc Long
Quân và Âu Cơ lên làm vua lấy hiệu Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang.
Khu
di tích đền Hùng là một quần thể kiến trúc thâm nghiêm trên núi Nghĩa Lĩnh. Từ
Hà Nội theo quốc lộ số 2 đến thành phố Việt Trì (84km) đi tiếp khoảng 10km đến
ngã ba Hàng rẽ về bên trái 3 km là đến khu di tích. Khu di tích lịch sử đền
Hùng gồm có đền Hạ và chùa, đền Giếng, đền Trung, đền Thượng, lăng vua Hùng.
Ðền
Hạ: Từ chân núi Hùng rẽ qua Ðại môn (cổng đền) leo qua
225 bậc thang xây bằng gạch lên đến đền Hạ và chùa (Thiên Quang tự). Ðền được xây vào thế kỷ 15, tương truyền nơi đây bà Âu Cơ sinh bọc
trăm trứng, nở thành trăm người con. Âu Cơ dẫn 50 người con lên núi, Lạc
Long Quân dẫn 49 người con xuống biển, để lại người con trưởng làm vua hiệu là
Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Trước cửa đền Hạ có
cây thiên tuế, nơi đây chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường về tiếp quản thủ đô có
nói chuyện với chiến sĩ của đại đoàn quân tiên phong "Các vua Hùng đã có
công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".
Ðền
Trung: Từ đền Hạ leo thêm 168 bậc đá nữa là tới đền
Trung. Tương truyền nơi đây các vua Hùng lập quán xá để nghỉ ngơi và bàn việc với
các lạc hầu. Cũng ở nơi đây hoàng tử Lang Liêu đã dâng bánh chưng,
bánh giầy lên cho vua cha nhân dịp tết
Ðền
Thượng: Từ đền Trung đi tiếp 102 bậc đá là đến đền Thượng, nơi các vua Hùng làm
lễ tế Trời Đất, Thần Núi và Thần Lúa. Ðây cũng là nơi Thục Phán sau khi được
vua Hùng thứ 18 truyền ngôi, dựng cột đá thề sẽ trông nom ngôi đền và giữ gìn
cơ nghiệp nhà Hùng.
Lăng
vua Hùng: Tương truyền là mộ vua Hùng Vương thứ 6. Sau khi Thánh Dóng đánh giặc
Ân bay lên trời, vua Hùng đã hoá ở đây.
Ðền
Giếng: Từ lăng đi xuống, đền ở chân núi phía Ðông
Cinet
Quảng Bình - Quảng Bình Quan
Quảng Bình Quan
01/06/2007, 08h13
Vị trí:
Quảng Bình Quan thuộc thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
Đặc điểm:
Là hệ thống thành luỹ cổ được Chúa Nguyễn xây từ năm 1630 để bảo vệ kinh đô Phú
Xuân, hiện nay đã được phục chế như nguyên bản.
Quảng
Bình Quan là công trình kiến trúc gồm có cổng và hệ thống thành lũy.
Do biến thiên của lịch sử và thời gian, Quảng Bình Quan đã bị hư hại nặng. Hiện nay, Quảng Bình Quan đã được phục chế lại như nguyên bản cách
đây hơn ba thế kỷ. Du khách ra Bắc vào Nam, ngang qua địa phận tỉnh Quảng
Bình sẽ được chiêm ngưỡng Quảng Bình Quan, một di tích kiến trúc có giá trị lịch
sử và nghệ thuật, đã đi vào văn thơ.
Cinet
Quảng Nam - Di sản văn hoá Mỹ Sơn
Di sản văn hóa Mỹ Sơn
01/06/2007, 08h25
|
|
|
|
Vị trí: Mỹ Sơn thuộc xã
Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam cách thành phố Ðà Nẵng khoảng 70km về
phía tây nam, cách Trà Kiệu khoảng 10km về phía tây trong một thung lũng kín
đáo.
Ðặc điểm:
Mỹ Sơn là thánh địa Ấn Độ giáo của vương quốc Chămpa. Những đền
thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ Linga hoặc hình tượng của thần Siva - Ðấng bảo hộ
của các dòng vua Chămpa.
Những
dòng chữ ghi trên tấm bia sớm nhất ở Mỹ Sơn, có niên đại khoảng thế kỷ thứ 4
cho biết vua Bhadresvara đã xây dựng một ngôi đền để dâng cúng vua thần Siva-
Bhadravarman. Hơn hai thế kỷ sau đó, ngôi đền đầu tiên được
xây dựng bằng gỗ đã bị thiêu huỷ trong một trận hỏa hoạn lớn.
Vào
đầu thế kỷ thứ 7, vua Sambhuvarman đã xây dựng lại ngôi đền bằng những vật liệu
bền vững hơn, còn tồn tại đến ngày nay. Các triều vua sau đó đều tu sửa các đền tháp cũ và xây dựng đền
tháp mới để dâng lên các vị thần của họ. Với hơn 70 công trình kiến trúc
bằng gạch đá, được xây dựng từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 13, Mỹ Sơn trở thành
trung tâm kiến trúc quan trọng nhất của Vương quốc Chămpa. Vị thần được tôn thờ
ở Mỹ Sơn là Bhadravarman, là vị vua đã sáng lập dòng vua đầu tiên của vùng
Amaravati vào cuối thế kỷ 4 kết hợp với tên thần Siva, trở thành tín ngưỡng
chính thờ thần - vua và tổ tiên hoàng tộc.
Vào
năm 1898, di tích Mỹ Sơn được phát hiện bởi một học giả người Pháp tên là M.C
Paris. Vào những năm đầu thế kỷ 20 này, 2 nhà nghiên cứu của
Viễn thông Pháp là L.Finot và L.de Lajonquière và nhà kiến trúc sư kiêm khảo cổ
học H. Parmentier đã đến Mỹ Sơn để nghiên cứu văn bia và nghệ thuật kiến trúc,
điêu khắc Chăm. Cho đến những năm 1903-1904 những tài liệu cơ bản nhất về bia
ký và nghệ thuật kiến trúc Mỹ Sơn đã được L.Finot chính thức công bố.
Tiền
thân của quần thể kiến trúc Mỹ Sơn cổ kính này, theo
văn bia để lại là một ngôi đền làm bằng gỗ để thờ thần Siva Bhadravarman. Nhưng đến khoảng cuối thế kỷ 6, một cơn hoả hoạn đã thiêu cháy ngôi
đền gỗ. Bức màn lịch sử đã được các nhà khoa học vén dần lên thông qua
những bia ký và lịch sử nhiều triều đại xưa cho ta thấy
Mỹ Sơn là khu thánh địa quan trọng nhất của dân tộc Chăm suốt từ cuối thế kỷ 4
đến thế kỷ 15. Bằng vật kiệu gạch nung và đá sa thạch,
trong nhiều thế kỷ người Chăm đã dựng lên một quần thể kiến trúc đền tháp độc
đáo, liên hoàn: Ðền chính thờ Linga-Yoni biểu tượng của năng lực sáng tạo. Bên cạnh tháp chính (Kalan) là những tháp thờ nhiều vị thần khác hoặc
thờ những vị vua đã mất. Mặc dù thời gian cùng chiến tranh đã biến nhiều
khu tháp thành phế tích nhưng những hiện vật điêu khắc, kiến trúc còn lại cho đến
ngày nay vẫn còn để lại những phong cách giai đoạn lịch sử mỹ thuật dân tộc
Chăm, những kiệt tác đánh dấu một thời huy hoàng của văn hoá kiến trúc Chămpa
cũng như của Đông Nam Á.
Mỗi
thời kỳ lịch sử, kiến trúc mang phong cách riêng, cũng như mỗi đền tháp thờ những
vị thần, những triều vua khác nhau tạo nên đường nét kiến trúc đầy dấu ấn,
nhưng nhìn chung tháp Chàm đều được xây dựng trên một mặt bằng tứ giác, chia
làm 3 phần: Ðế tháp biểu hiện thế giới trần gian, vững chắc. Thân
tháp tượng hình của thế giới thần linh, kỳ bí mê hoặc. Phần trên cùng là
hình người dâng hoa trái theo nghi lễ hoặc hình cây
lá, chim muông, voi, sư tử... động vật gần gũi với tôn giáo và cuộc sống con
người.
Theo
các nhà nghiên cứu tháp Chàm cổ, nghệ thuật kiến trúc tháp Chàm tại Mỹ Sơn hội
tụ được nhiều phong cách; mang tính liên tục từ phong cách cổ thế kỷ 7 đến thế
kỷ 8; phong cách Hoà Lai thế kỷ 8 đến thế kỷ thứ 9; phong cách Ðồng Dương từ giữa
thế kỷ 9; phong cách Mỹ Sơn và chuyển tiếp giữa Mỹ Sơn và Bình Ðịnh; phong cách
Bình Ðịnh... Trong nhiều công trình kiến trúc còn lại khi phát hiện (1898) có
tháp cao tới 24m, trong khu vực Tháp Chùa mà các sách khảo cổ, nghiên cứu về Mỹ
Sơn có ký hiệu là tháp cổ Chămpa, có 2 cửa ra vào phía Ðông và phía Tây. Thân tháp cao, thanh tú với một hệ thống cột ốp. Xung quanh
có 6 tháp phụ, toàn bộ ngôi tháp 2 tầng toả ra như cánh sen. Tầng trên, chóp đá
sa thạch được chạm hình voi, sư tử, tầng dưới, mặt tường là hình những người cưỡi
voi, hình các thiên nữ thuỷ quái. Nhưng ngôi tháp giá trị này
đã bị không lực Mỹ huỷ hoại trong chiến tranh, năm 1969. Sau khi phát hiện
ra khu tháp cổ Mỹ Sơn, nhiều hiện vật tiêu biểu trong đó đặc biệt là những tượng
vũ nữ, các thần linh thờ phượng của dân tộc Chăm, những con vật thờ cũng như những
cảnh sinh hoạt cộng đồng đã được đưa về thành phố Ðà Nẵng đặt tại bảo tàng kiến
trúc Chàm. Tuy không phải là nhiều, nhưng những hiện vật này là những tác phẩm
nghệ thuật điêu khắc tiêu biểu, nó có giá trị văn hoá của một dân tộc, nhưng
hơn thế nữa, nó là những chứng tích sống động, xác thực lịch sử của một trong
những dân tộc trong cộng đồng Việt Nam giàu truyền thống văn hoá.
Mỹ
Sơn đã được trùng tu bởi E.F.E.O (Ecole Francaise d’Extreme Orient) trong thời
gian từ 1937 đến 1944, nhưng khu vực này đã bị bom Mỹ tàn phá nặng nề trong chiến
tranh. Đến năm 1975 , trong số 32 di tích còn lại, chỉ có khoảng 20 đền , tháp
còn giữ được dáng vẻ ban đầu. Từ năm 1981 đến 1991, Mỹ Sơn được bảo quản và tu
sửa từng phần với sự giúp đỡ về chuyên môn của công ty P.K.Z (Ba Lan). Phần lớn các tác phẩm điêu khắc ở Mỹ Sơn đã được người
Pháp thu gom về Đà Nẵng vào những năm đầu thế kỷ 20 và được trưng bày tại bảo tảng
Chàm. Khu di tích Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là Di sản
văn hóa thế giới tháng 12 năm 1999.
Cinet
Quảng Nam - Phố cổ Hội An
Phố cổ Hội An
|
Từ
Đà Nẵng đi khoảng 30 km là đến thị xã Hội An nằm trên sông Thu Bồn. Khu phố cổ
Hội An được hình thành vào khoảng thế kỷ 16, xưa kia
đã nổi danh như một thời với tên gọi Fai Foo. Từ những thế kỷ này, thương cảng
Hội An đã thịnh vượng, là trung tâm buôn bán lớn của vùng Đông
Thị
xã Hội An có những dãy phố cổ gần như nguyên vẹn, đó là loại nhà hình ống
xuyên suốt từ phố nọ sang phố kia, trong đó có một dãy phố nằm ngay sát bờ sông
Hội An. Nhà ở đây toàn bằng gỗ quí, trong nhà treo hoành phi câu đối, cột nhà
chạm trổ hoa văn rất cầu kỳ... Các di tích kiến trúc cổ như
chùa chiền, đình, miếu, hội quán chùa cầu... có cách đây hằng mấy trăm năm, hầu
như còn giữ được nguyên vẹn. Đến Hội An du
khách còn có thể thăm quan các di tích thời văn hoá Sa Huỳnh,
Hội An đã và đang trở thành một trung tâm du lịch đầy hấp dẫn.
Quảng Ngãi - Di tích lịch sử Sơn Mỹ
Di tích lịch sử Sơn Mỹ
01/06/2007, 08h38
|
|
|
Vị trí: Di tích lịch sử
Sơn Mỹ nằm trên địa bàn xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
Đặc điểm:
Sơn Mỹ là nơi đã ghi lại tội ác dã man của đế quốc Mỹ đối với nhân dân Việt
Di
tích vụ thảm sát Sơn Mỹ gồm địa điểm thứ nhất ở xóm Thuận Yên (nay là xóm Khê
Thuận), nơi lính Mỹ đã giết 47 người thuộc thôn Tư Cung. Ðịa
điểm thứ hai ở xóm Mỹ Hội (nay là xóm Khê Hội), nơi lính Mỹ đã giết hại 97 người
thôn Cổ Lũy.
Di
tích vụ thảm sát Sơn Mỹ cách thành phố Quảng Ngãi 13km về phía đông bắc.
Ngày 16/3/1968, một cuộc hành quân huỷ diệt dã man chưa từng thấy, được quân
xâm lược Mỹ mưu tính và thực hiện, đánh vào người dân Sơn Mỹ vô tội không một tấc
sắt trong tay. Với chủ trương: đốt sạch, phá sạch, giết sạch chúng đã biến nơi
này thành vùng đất chết. Vụ thảm sát Sơn Mỹ là đỉnh cao trong muôn vàn tội ác của
đế quốc Mỹ đối với nhân dân Việt
Khu
chứng tích Sơn Mỹ, diện tích 2,4ha, nằm ở xóm Khê Thuận (thôn Tư cung, xã Tịnh
Khê) cạnh tỉnh lộ 24B từ thành phố Quảng Ngãi đi Sơn Mỹ - Mỹ Khê - Sa Kỳ
và cách cụm di tích ruộng ông Nhiều, tháp canh, đường làng khoảng 400m. Di tích
nằm tách biệt với nhà dân bao gồm các di tích gốc đã được bảo tồn tôn tạo và
các công trình về sau này mới được xây dựng như: nhà trưng bày bổ sung, nơi tiếp
khách, tượng đài, tượng vườn.
Cụm
di tích: ruộng ông Nhiều, tháp canh, gốc cây gòn nằm ở xóm Khê Thuận và điểm di
tích vườn ông Phạm Minh (Khê Ðông), Phạm Hội (Khê Tây).
Ðiểm
di tích: hầm chống pháo của gia đình ông Lý Lệ, ông Ngô Mân tại xóm Mỹ Hội
(thôn Cổ Lũy).
Các điểm di tích mộ chôn chung các nạn nhân bị thảm
sát.
Bên
cạnh giá trị lịch sử, khu di tích Sơn Mỹ là nơi ghi tội ác điển hình của giặc Mỹ
trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, là nơi tưởng niệm 504 đồng bào ta đã
ngã xuống. Sơn Mỹ còn có giá trị về du lịch: nó nằm trong tuyến du lịch Thiên Ấn
(khu mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng) - Châu Sa - Sơn Mỹ - Mỹ
Khê - Dung Quất. Hàng năm có hơn 5 vạn người đến Sơn Mỹ tham
quan. Hiện nay, mỗi tháng có gần 3.300 lượt khách đến
tham quan.
Ðến
Sơn Mỹ hôm nay, du khách có thể dừng lại trước bức tượng để cảm nhận nỗi đau tột
cùng của nạn nhân Sơn Mỹ ngày ấy. Bên trong nội thất Nhà
Chứng tích, du khách có thể xem nhiều hiện vật còn được lưu giữ: đó là chiếc
mâm thau cũ còn lỗ chỗ vết đạn, chiếc áo, đôi dép của một cháu bé bị bắn chết;
các loại chén đĩa, xoong chảo bị bắn thủng vỡ, chiếc mõ tụng kinh của nhà sư
Thích Tâm Trí còn tìm lại được. Trong những hiện vật đó còn
tìm thấy chiếc kẹp tóc của cô Nguyễn Thị Huỳnh. Sau khi cô bị sát hại,
người yêu cô đã tìm nhặt lại được chiếc kẹp tóc ấy, trân trọng giữ gìn nó suốt
8 năm trời trước khi giao nó cho Nhà Chứng tích...
Bên ngoài khuôn viên chứng tích, rải rác đó đây trong các xóm thôn là những tấm
bia dựng lên ở các địa điểm đã xảy ra các cuộc bắn giết.
Ðây là tháp canh ở rìa làng, bên con đường đất nhỏ xã Thuận
Yên với 102 người bị bắn chết. Kia là cây gòn nơi 15 phụ nữ và trẻ em bị
sát hại.
Ở
xóm Mỹ Hội, bây giờ bóng dừa đã vươn cao, ngoài kia biển xanh vẫn xua những đợt
sóng bạc đầu vào bãi cát vàng sạch sẽ, duyên dáng, đúng là một cảnh đẹp có hạng
ở Việt Nam. Giữa những khung cảnh trầm lắng thân thương ấy là tấm bia ghi dấu 97 người dân ở xóm bị tàn sát ngày nào.
Khu
chứng tích Sơn Mỹ thường xuyên đón khách đến tham quan.
Họ là các thương gia, các nhà khoa học, khách du lịch đủ mọi quốc tịch, đặc biệt
ngày càng có nhiều người Mỹ đến thăm nơi này tỏ lòng thông cảm với những nỗi
đau sâu sắc của nhân dân Việt Nam trong chiến tranh.
Cinet
Quảng Ninh - Bãi cọc Bạch Đằng
Bãi cọc Bạch Ðằng
|
Bãi
cọc Bạch Ðằng nằm trong khu đầm nước của xã Yên Giang giáp đê sông Chanh thuộc
xã Yên Giang, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh.
Ðã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử (số191 VH/QÐ
ngày 22 tháng 3 năm 1988) nhân kỷ niệm 700 năm chiến thắng Bạch Ðằng. Bãi cọc Bạch
Ðằng tồn tại cùng thời gian là nhân chứng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của
dân tộc ta. Nơi ghi dấu thiên tài quân sự của anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn ở
thế kỷ XIII. Vào thế kỷ XIII, sau 2 lần tiến quân xâm lược Việt Nam bị thất bại
thảm hại (1258, 1285) năm 1288 quân Nguyên Mông quyết tâm xâm lược nước ta một
lần nữa với 30 vạn quân do Thoát Hoan chỉ huy và 70 vạn hộc lương do Trương Văn
Hổ chỉ huy tiến vào Thăng Long bằng đuờng bộ và đường thuỷ.
(Cinet)
Quảng Ninh - Đền cửa Ông
Ðền Cửa Ông
|
Kiến trúc đền
chính theo kiểu chữ công (I) gồm 3 gian tiền đường, 2
gian ống mướp và 3 gian hậu cung. Ðây là đền duy nhất thờ đầy
đủ gia thất Trần Quốc Tuấn và các cận thần của ông còn lại đến ngày nay.
Với 34 pho tượng lớn nhỏ đã được các nghệ nhân chạm trổ công phu tỉ mỉ, sắc nét
với tư thế ngồi trong ngai, khám, long đình rất cân đối, mang giá trị nghệ thuật
cao. Ðó là tượng Trần Quốc Tuấn, tượng Thánh Mẫu (vợ ông), 2 công chúa (con
ông), Trần Quốc Tảng, Trần Anh Tông, Trần Khánh Dư, Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm
Ngũ Lão, Lê Phu Trần, Ðỗ Khắc Chung... và một số câu đối, đồ thờ tự khác. Từ lâu, đền Cửa Ông đã nổi tiếng linh thiêng không chỉ đối với nhân
dân Quảng Ninh, nhân dân các tỉnh lần lượt trong nước lần lượt tìm đến để dâng
hương.
(Cinet)
Quảng Ninh - Đền Trần Hưng Đạo
Ðền Trần Hưng Ðạo
Ðền Trần Hưng Ðạo
được toạ lạc trên doi đất cổ, bên bờ sông Bạch Ðằng thuộc xã Yên Giang, huyện
Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh, đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là
di tích lịch sử cùng với Miếu Vua Bà số 100 VH/QÐ ngày 21/1/1990 bổ sung cho di
tích Bãi cọc Bạch Ðằng. Ðền Trần Hưng Ðạo trước đây được xây dựng ở khu hậu đồng,
cách đền ngày nay gần 1.000m về hướng đông, năm 1936 mới chuyển về cạnh miếu
Vua Bà ở vị trí hiện nay. Ðền được xây dựng ngay trên mảnh đất diễn ra trận đại
thắng Bạch Ðằng năm 1288 mà những cọc gỗ dưới đầm Yên Giang là một minh chứng.
Ðền kiến trúc theo kiểu chữ Ðinh (J) gồm 3 gian tiền đường, 2 gian bái đường và
1 gian hậu cung. Hiện vật còn giữ lại trong đền là một số câu đối ca ngợi công
lao to lớn của Trần Hưng Ðạo đối với giang sơn đất Việt, 1 bộ kiệu bát cồng được
chạm trổ điêu khắc tỉ mỉ và 4 đạo sắc của các vua triều Nguyễn phong cho các chủ
thân đền Trần Hưng Ðạo. Lễ hội đền Trần Hưng Ðạo - Miếu Vua
Bà diễn ra vào ngày 8/3 âm lịch hàng năm.
(Cinet)
Quảng Ninh - Đền Trung Cốc
Ðền Trung Cốc
Ðền Trung Cốc nằm
trên gò đất cao ở giữa thôn Ðông Cốc, xã Nam Hoà, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng
Ninh, đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử số 310 QÐ/BT
ngày 13-2-1996 bổ sung cho di tích bãi cọc Bạch Ðằng. Ðền được xây dựng từ lâu
bằng tranh tre, đến năm Gia Long thứ 6 (1807) xây dựng lại như ngày nay. Ðền thờ
anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn và Phạm Ngũ Lão. Tương truyền, để chuẩn bị cho
xây dựng bãi cọc đồng Vạn Muối ở cửa Sông Kênh, 2 ông đã bị cạn thuyền gò đất
thôn Ðông Cốc (ngày nay) và phải huy động dân binh, thuyền chài tới kéo thuyền
ra. Ðể ghi nhớ sự kiện này, sau chiến thắng Bạch Ðằng, nhân
dân đã lập đền thờ ngay tại chỗ thuyền bị mắc cạn trước đây.
(Cinet)
Quảng Ninh - Đền và Lăng Mộ nhà Trần
Ðền và lăng
mộ nhà Trần
Ðền và lăng mộ
nhà Trần thuộc xã An Sinh, huyện Ðông Triều, tỉnh Quảng Ninh, nằm rải rác trong
một khu đất rộng có bán kính 20 km để thờ "Bát vị Hoàng Ðế" thời Trần.
Ðây là một trong những công trình tưởng niệm có giá trị lớn trong lịch sử nước
ta và đã được Bộ Văn hoá Thông tin ra quyết định công nhận là di tích lịch sử
(số 313 VH/QÐ ngày 28 tháng 4 năm 1962). Ðền và Lăng mộ nhà Trần được xây dựng
trong nhiều thời gian ở thời Trần, được trùng tu vào thời Hậu Lê và thời Nguyễn
bao gồm một đền 8 lăng mộ. Cụ thể là: khu đền Sinh thuộc
thôn Nghĩa Hưng là nơi thờ chung 8 vị Vua Trần và lăng mộ của Trần Thái Tông,
Trần Thánh Tông và Giản Ðịnh Ðế. Lăng mộ Trần Anh Tông ở khu trại Lốc, lăng Trần
Minh Tông ở khu Khe Gạch, lăng Trần Hiến Tông ở khu Ao Bèo, lăng Trần Dụ Tông ở
khu Ðống Tròn, lăng Trần Nghệ Tông ở khu Khe Nghệ. ngoài việc xây dựng điện miếu
ở mỗi lăng làm nơi thờ cúng, triều đình còn cho xây dựng ở khu đền Sinh nhiều
toà điện miếu lớn để làm nơi tế lễ bái yết và cát cử các quan về trông coi cẩn
thận. Toàn bộ khu vực này trở thành thánh địa tôn nghiêm qua
các triều Trần, Lê, Nguyễn. Trải qua thời gian và
thăng trầm của lịch sử, khu vực này đã bị hư hỏng nặng. Ngày nay với ý
thức và lòng tự hào dân tộc nên khu đền Sinh và các lăng mộ nhà Trần đang dần
được quan tâm phục hồi đúng với tầm cỡ của nó để bảo tồn và phát huy một di sản
văn hoá quý báu của dân tộc và góp phần giáo dục truyền thống cho các thế hệ
mai sau.
(Cinet)
Quảng Ninh - Đình Yên Giang
Ðình Yên Giang (An Hưng đình)
|
Ðình Yên Giang nằm
trên một gò đất cao ở trung tâm xã Yên Giang, huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh đã
được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử số 310 QÐ/BT
ngày 13-2-1996 (bổ sung vào di tích bãi cọc Bạch Ðằng). Ðình
xây dựng thế kỷ 16 nhưng đã trải qua nhiều lần trùng tu xây dựng năm 1952; 1993
được xây dựng lại như ngày nay. Ðình thờ Thành Hoàng làng là vị anh hùng
dân tộc Trần Hưng Ðạo. Ðình Yên Giang và đền Trần Hưng Ðạo có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Ðền thờ Trần Hưng Ðạo
là nơi thờ thường xuyên thành Hoàng của Làng. Do vậy vào các ngày sinh,
ngày hoá của Trần Hưng Ðạo vào ngày giỗ trận (ngày 8/3 âm lịch, ngày chiến thắng
Bạch Ðằng 1288) và các dịp làng có sự như cầu mưa, cầu phước...dân làng đều rước
tượng Trần Hưng Ðạo từ đền về đình để tế lễ, cầu xin Thành Hoàng làng che chở.
Ðình kiến trúc theo kiểu chữ Ðinh (J) gồm 5 gian tiền đường, 3 gian bái đường
và 1 gian hậu cung. Hiện nay đình còn lưu giữ được một bát hương sứ thời Lê, 2
bia đá chạm nổi trên trán và diềm hình rồng thời Nguyễn, câu đối, đại tự và 6 đạo
sắc của các vua triều nguyễn phong cho Thành Hoàng làng Trần Hưng Ðạo, 5 long
ngai, 1 bộ kiệu Bát Cống và long đình được chạm trổ kênh bong sắc nét hình rồng
và hoa văn hoa lá sơn son thiếp vàng thời Nguyễn. Lễ hội đình Yên Giang gắn bó
mật thiết với đền Trần Hưng Ðạo - miếu Vua Bà và bãi cọc Bạch Ðằng vào ngày 8/3
âm lịch, kỷ niệm ngày chiến thắng Bạch Ðằng năm 1288. Ngoài ra đình còn có 2 lần
hội nữa đó là ngày 20/8 âm lịch (ngày mất của Trần Hưng Ðạo) ngày 24, 25, 26 âm
lịch là ngày đại kỳ phước tức tạ ơn Thành Hoàng, Thổ địa đã ban phúc cho đồng
điền phong đăng hoà cốc.
(Cinet)
Quảng Ninh - Khu di tích Yên Tử
Khu di tích Yên Tử
Khu di tích thắng
cảnh Yên Tử bao gồm một hệ thống chùa, am, tháp và rừng cây cổ thụ hoà quyện với
cảnh vật thiên nhiên, nằm rải rác từ dốc Ðỏ đến núi Yên Tử theo chiều cao dần
thuộc xã Thượng Yên Công, thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, đã được Bộ Văn hoá
Thông tin cấp bằng công nhận là di tích danh thắng (số 15VH/QÐ ngày 13/3/1974).
Nằm trong cánh cung trùng điệp của khu đông bắc, đỉnh núi Yên
Tử có chùa Ðồng ở độ cao 1.068m so với mặt ước biển. Từ
xưa, núi rừng Yên Tử đã nổi tiếng là nơi ngoạn mục và được liệt vào danh sơn đất
Việt. Ngay từ thời Lý, Yên Tử đã có chùa thờ Phật gọi
là chùa Phù Vân và đạo sỹ Yên Kỳ Sinh đã tu hành đắc đạo ở đây. Nhưng
Yên Tử thực sự trở thành trung tâm Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ
ngai vàng khoác áo cà sa tu hành và thành lập một giáo phái Phật giáo đặc trưng
của Việt Nam đó là phái thiền phái Trúc Lâm và trở thành vị tổ thứ nhất với
pháp danh: Ðiều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308), ông đã cho xây dựng
hàng trăm công trình lớn nhỏ trên núi Yên Tử để làm nơi tu hành và truyền kinh,
giảng đạo. Sau khi ông qua đời, người kế tục sự nghiệp là
Pháp Loa Ðồng Kiên Cương (1284-1330) vị tổ thứ hai của phái Trúc Lâm.
Trong 19 năm tu hành, ông đã soạn ra bộ sách "Thạch thất ngôn ngữ" và
cho xây dựng 800 ngôi chùa, am, tháp lớn nhỏ trong nước với hàng nghìn pho tượng
có giá trị, trong đó có những chùa nổi tiếng như viện Quỳnh Lâm, chùa Hồ Thiên ở
Ðông Triều... ở trung tâm truyền giáo của Pháp Loa còn có Huyền Quang Lý Ðạo
Tái (1254-1334) - vị tổ thứ 3 của phái Trúc Lâm. Sang đến thời Lê, Nguyễn, Yên
Tử trở thành trung tâm của Phật giáo Việt Nam và được vua quan các triều đại
quan tâm tôn tạo sửa chữa nên khu di tích Yên Tử là kết tinh, sự hội tụ của nền
văn hoá dân tộc với dáng dấp kiến trúc, hoa văn trang trí và các mảng chạm khắc
mang đậm dấu ấn của các thời đại. Vẻ đẹp của Yên Tử là sự kỳ vĩ của núi non hoà
với nét cổ kính trầm mặc của hệ thống am, tháp cùng với đường tùng, thông, đại,
trúc, mai mọc ở hai bên đường toả bóng mát làm cho du khách thập phương quên nỗi
mệt nhọc đường dốc cheo leo. Lễ hội chính của Yên Tử diễn ra từ ngày 10 tháng
riêng âm lịch và kéo dài trong 3 tháng xuân ấm áp
(Cinet)
Quảng Ninh - Miếu Tiến Công
Miếu Tiên Công
|
Miếu Tiên Công nằm
ngay cạnh Uỷ ban Nhân dân xã Cẩm La, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh, đã được Bộ
Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử số 34 VH/QÐ ngày
9/1/1990. Miếu được xây dựng từ lâu, đến năm Gia Long thứ 3
(1804) thì xây dựng lại và được trùng tu sửa chữa nhiều lần về sau. Miếu xây dựng để thờ 19 vị Tiên công có công đầu tiên trong việc
quai đê lấn biển lập nên đảo Hà
(Cinet)
Quảng Ninh - Miếu Vua Bà
Miếu Vua Bà
Miếu Vua Bà thuộc
xã Yên Giang, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh, được Bộ Văn Hoá Thông tin cấp bằng
công nhận là di tích lịch sử cùng với đền Trần Hưng Ðạo số 100 VH/QÐ ngày
21/01/1990 bổ sung cho di tích bãi cọc Bạch Ðằng. Miếu được xây dựng từ thời Trần
trên doi đất cổ, ngay cạnh bến đò cũ ngày xưa và đã qua nhiều lần trùng tu sửa
chữa. Tương truyền rằng trong khi đi thị sát địa hình chuẩn bị chiến trường, Trần
Hưng Ðạo đi qua bến đò gặp bà cụ bán hàng và hỏi, bà đã cung cấp cho Trần Hưng
Ðạo lịch triều con nước, địa thế dòng sông và bà đã mách dùng chiến thuật hoả
công để đánh giặc. Sau khi thắng trận, Trần Hưng Ðạo đã quay lại bến đò tìm bà
cụ bán hàng nước thì không thấy nữa, ông đã xin vua Trần phong sắc cho bà là
"Vua Bà" và lập đền thờ tại đây. Lễ hội đền Trần Hưng Ðạo, miếu Vua
Bà được diễn ra vào ngày 8/3 âm lịch hàng năm cùng với bãi cọc Bạch Ðằng, đình
Yên Giang, đền Trung Cốc và đình Trung Bản nhân kỷ niệm chiến thắng Bạch
Ðằng lịch sử 1288.
(Cinet)
Quảng Trị - Địa đạo Vịnh Mốc
Địa đạo Vịnh Mốc
01/06/2007, 08h48
|
|
Vị trí: Địa đạo Vịnh Mốc
thuộc huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, cách quốc lộ 1A 13km về phía đông, cách
Cửa Tùng 6km về phía bắc.
Đặc điểm:
Địa đạo dài gần 2km gồm 3 tầng sâu dưới mặt đất. Nơi đây từng là pháo đài thép
của miền Bắc XHCN trong suốt 7 năm liền chống chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ. Vịnh Mốc là nơi đầu tiên bị đế quốc Mỹ ném bom tàn phá trong cuộc chiến
tranh bằng không quân đánh phá miền Bắc Việt
Địa
đạo Vịnh Mốc là một trong những điểm hấp dẫn của tuyến du lịch nổi tiếng DMZ
(khu vực phi quân sự), thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước, đặc biệt là
những cựu chiến binh Mỹ.Họ đến để chiêm ngưỡng kỳ tích độc đáo này, một chứng
tích tiêu biểu về sự hy sinh chịu đựng và gan góc chiến đấu vì độc lập, tự do của
người dân Vịnh Mốc nói riêng và người dân Việt Nam nói chung. Hàng ngàn dòng cảm
tưởng của khách nước ngoài tỏ ra vô cùng thán phục tài trí, ý chí của người Việt
Ấn tượng mạnh khi đặt chân lên vùng
di tích Vịnh Mốc là dòng chữ lớn nằm trang trọng trong phòng trưng bày: "Tồn
tại hay không tồn tại", rút ra từ tác phẩm nổi tiếng Hămlét của nhà văn
người Anh Xêchxpia. Câu này lại càng có ý nghĩa hơn và gây xúc động cho du
khách khi đặt bênh cạnh những tấm ảnh: một tấm chụp cảnh làng quê trù phú san
sát nóc nhà vào tháng 2/1965; còn tấm ảnh kế bên cũng làng quê ấy, nhưng đã bị
bom đạn kẻ thù hoàn toàn huỷ diệt trên mặt đất; tấm ảnh 11 cháu bé ra đời trong
bóng tối của chiến tranh đang quây quần trong ánh sáng của ngày chiến thắng; tấm
ảnh bốn o du kích xinh tươi trong chiếc áo sơ mi trắng lạc quan hát dưới hầm địa
đạo và rồi cũng chính họ trong bộ cánh màu xanh người lính lại xuất hiện trên mặt
đất điều khiển các khẩu pháo bắn trả kẻ thù. Chính sự tàn khốc của chiến
tranh ở nơi đây đã làm cho con người ta muốn tồn tại chỉ có hai cách: hoặc là bỏ
nơi đây mà đi, hai là chui xuống đất và người dân Vịnh Mốc đã chọn cách thứ
hai. "Tồn tại hay không tồn tại" được người dân Vịnh Mốc trả lời bằng
việc 17 công dân được sinh ra ngay dưới lòng địa đạo trong hai năm 1967-1968.Đến
địa đạo Vịnh Mốc hôm nay, nhìn những vườn cao su và hồ tiêu xanh mướt trên mảnh
đất bazan màu mỡ, nhìn cảnh sắc biển trời mây non nước hiền hoà ấy, ít ai tưởng
tượng được rằng hơn ba thập kỷ trước, ở nơi đây đã từng là một pháo đài thép của
miền Bắc XHCN trong suốt bảy năm liền (1966 - 1972) chống lại cuộc chiến tranh
phá hoại khốc liệt của đế quốc Mỹ. Vịnh Mốc không chỉ là địa đầu miền Bắc mà
còn là địa điểm thuận lợi cho việc tập kết lương thực, vũ khí tiếp tế cho đảo Cồn
Cỏ, hòn đảo có vị trí quan trọng cho việc án ngữ vùng biển Vĩnh Linh (cách Vịnh
Mốc 28km). Chính vì vậy, Mỹ đã trút hàng vạn tấn bom đạn xuống
vùng đất này. Kẻ xâm lược tuyên bố :"Phải
biến đất này trở về thời kỳ đồ đá!". Một cuộc chiến tranh huỷ diệt được tiến
hành vì mục tiêu "Phải kéo được biên giới Hoa Kỳ đến tận Vĩ tuyến 17 - ranh giới giữa hai bên bờ cầu Hiền
Lương". Người ta ước tính rằng, trong một ngày, một người dân ở đây phải hứng
chịu số bom đạn tương đương 500 quả đạn pháo hạng nặng.Năm 1976, Bộ Văn hoá -
Thông tin đã công nhận làng địa đạo Vịnh Mốc là di tích quốc gia và đưa vào
danh mục các di tích đặc biệt quan trọng. Để đảm bảo an
toàn cho du khách, Chính quyền địa phương đã cho tôn tạo, tu bổ, gia cố bằng bê
tông các đoạn hầm bị sụt lở; mắc điện ở các lối đi trong địa đạo.
Cinet
Quảng Trị - Thành cổ Quảng Trị
Thành cổ Quảng Trị
Vị trí:
Thành cổ Quảng Trị thuộc phường 2, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị, cách quốc
lộ 1A 2km về phía đông.
Đặc điểm:
Thành được xây từ năm thứ 4 đời vua Minh Mạng (1824). Nơi đây
đã từng đương đầu với khối lượng bom đạn khổng lồ của quân Mỹ vào năm 1972.
Thành
có chu vi gần 2km, cao chừng 4m, dày khoảng 1 đến 2m. Thành có 4 cửa theo bốn hướng Ðông,
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, năm 1972 tại thành cổ Quảng Trị, quân Giải
phóng Việt Nam đã phải đương đầu với khối lượng bom đạn khổng lồ của Mỹ -
Nguỵ trút xuống thành cổ, với sức công phá tương đương 8 quả bom nguyên tử
mà Mỹ đã thả xuống Hirosima (Nhật Bản) năm 1945. Các chiến sĩ quân Giải phóng
Việt Nam vẫn kiên cường bám trụ bảo vệ thành cổ suốt 81 ngày đêm tới khi
có lệnh rút quân, tạo thế thắng trên bàn đàm phán của quân
và dân ta tại Hội nghị Pari.
Cinet
Sóc Trăng - Căn cứ Tỉnh uỷ Sóc Trăng
Căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng
01/06/2007, 08h59
Vị trí: Căn cứ Tỉnh ủy
Sóc Trăng nằm trong khu rừng tràm thuộc xã Mỹ Phước, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc
Trăng. Ở cách huyện lỵ Mỹ Tú 13km (theo đường thủy),
cách thành phố Cần Thơ 81km.
Đặc điểm:
Căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng là một di tích cách mạng được xây dựng trong những năm
đầu kháng chiến chống Pháp.
Đặt
rải rác trên khu vực rộng gần 100ha trong rừng tràm rộng đến 20.000ha, di tích
được bao bọc bởi hệ thống sông ngòi chằng chịt, cây cối um tùm.
Đây là vị trí chiến lược quan trọng của quân dân Sóc Trăng đã
giữ vững trong suốt cuộc chiến chống Pháp và Mỹ.
Khu
di tích có nhà hội trường trước năm 1968 được dựng bằng các loại cây tràm, lá dừa
nước. Sau năm 1968, căn cứ tỉnh ủy được xây dựng lại kiên
cố hơn. Hội trường được xây cất lớn hơn, khang trang hơn, cột,
vì kèo bằng gỗ dầu vuông, mái lợp lá chẻ. Hai bên hội trường là bốn căn
hầm nổi, hai căn hầm chìm được đúc bằng bê tông từ năm 1968. Cách hội trường
300m là hai căn hầm bí mật dành cho các đồng chí lãnh đạo. Bên cạnh hội trường
là nhà làm việc của Bí thư, hàng trăm lán trại của ban
tuyên huấn, dân vận, quân y, an ninh, tỉnh đội, điện đài, bảo vệ...
Hiện
nay khu căn cứ tỉnh ủy chỉ còn lại nền hội trường, hồ chứa nước và hai hầm
tránh pháo.
Cinet
Sơn La - Nhà Tù và Bảo tàng Sơn La
Nhà tù và Bảo tàng Sơn La
Vị trí: Nhà tù và Bảo
tàng Sơn La nằm ở thị xã Sơn La, tỉnh
Đặc điểm:
Nhà tù Sơn La do người Pháp xây dựng năm 1908 trên đồi Khau Cả. Nơi giam
giữ nhiều chiến sỹ cách mạng Việt
Ban
đầu là một nhà tù nhỏ hàng tỉnh, được mở rộng quy mô vào những năm 1930 - 1940.
Giai đoạn từ 1930 - 1945 tại đây giam cầm hơn một ngàn tù nhân, trong đó có nhiều
vị là cán bộ chủ chốt của cách mạng Việt
Lê Thanh Nghị, Nguyễn Lương Bằng, Song Hào, Xuân Thủy...
Đến
với di tích Nhà tù Sơn La, thăm các xà lim ngầm, xà lim chéo, trại ba gian cùng
với hàng trăm hiện vật, du khách sẽ chứng kiến hoàn cảnh sống cơ cực của tù
nhân, càng khâm phục ý chí kiên cường của họ trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
dân tộc. Du khách sẽ không khỏi xúc động đứng trước cây đào
mang tên Tô Hiệu, bên tường đá nhà ngục cây đào luôn xanh tươi - biều tượng cho
ý chí bất khuất của người cộng sản.
Bên cạnh khu di tích nhà tù là Nhà Bảo tàng tổng hợp của tỉnh Sơn La, nơi trưng
bày nhiều hiện vật quí giới thiệu truyền thống lịch sử, văn hoá của cộng đồng
12 dân tộc đoàn kết cùng nhau xây dựng Sơn La thành tỉnh giàu có của Việt Nam.Di tích nhà tù Sơn La được Bộ Văn
hoá - Thông tin xếp hạng năm 1962. Hàng năm đón hơn trăm nghìn lượt du khách
đến tham quan.
Cinet
Thành cổ Quảng Trị - Di tích chiến
tranh kiêu hùng
Thành cổ Quảng Trị - Di tích chiến
tranh kiêu hùng
|
Dòng
sông Thạch Hãn hôm nay hiền hòa, xanh ngát, khác với hình dung của du khách về
một con sông đỏ lượm màu máu của một thời lửa đạn, của 81 ngày đêm Thành cổ
rung chuyển giữa mùa hè đỏ lửa năm 1972. Cách bờ sông Thạch Hãn 500m về phía
Nam và chỉ cách Quốc lộ 1A 2 Km về phía Đông, di tích Thành cổ Quảng Trị được bảo
tồn ngay trung tâm thị xã Quảng Trị anh hùng (khu phố 4, phường 2). Có thể nói,
đây là điểm đến tiêu biểu nhất cho vùng đất du lịch được mệnh danh là “miền hồi
tưởng” tỉnh Quảng Trị, với những địa danh lịch sử: đảo Cồn Cỏ, sông Bến Hải - cầu
Hiền Lương, Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, Khe Sanh - Đường 9 Nam Lào...
Hơn hai thế
kỷ trước, Thành cổ Quảng Trị là thành lũy quân sự của nhà Nguyễn. Thành Quảng
Trị xây dựng từ đầu đời vua Gia Long (1802), nguyên gốc được đắp bằng đất theo dạng hình vuông, đến năm Minh Mạng thứ 18 (1837) mới
xây bằng gạch. Đây là nơi để vua ngự mỗi khi đi tuần thú, nơi
làm lễ thăng quan cho các đại quan cấp tỉnh và tổ chức các tiết lễ khác trong
năm. Suốt gần 140 năm (1809-1945) dưới thời nhà Nguyễn, Thành cổ Quảng
Trị là trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự của tỉnh Quảng Trị và là thành lũy
quân sự để bảo vệ kinh đô Huế ở phía Bắc. Tuy nhiên, đến thời Pháp thuộc, dinh
lũy này được thực dân Pháp xây dựng thành nhà lao. Từ năm 1929-1972, nhà lao Quảng Trị là nơi giam cầm hàng ngàn sĩ phu yêu nước, chiến
sĩ Cộng sản và cả những người dân vô tội.
Thời đánh Mỹ năm 1972, vùng đất Quảng
Trị được xem là chiến trường khốc liệt nhất, nơi diễn ra những cuộc đụng đầu nảy
lửa giữa ta và địch. Với địa thế vừa là
bàn đạp để thực hiện âm mưu “Bắc tiến” khi có điều kiện, vừa là lá chắn bảo vệ
“biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17”, đây là chiến trường sinh tử đối với
Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau hai cuộc tấn
công bất ngờ và quả cảm của quân ta - bắt đầu từ giữa trưa ngày
Để lấy lại
tinh thần và gây sức ép với ta tại Hội nghị
Trong lửa đạn khốc liệt ấy, Thành cổ
Quảng Trị với chu vi hơn 2.160m là “túi bom” của kẻ
thù. Chúng huy động tối đa lực lượng, phương tiện để chiếm bằng
được Thành cổ vì đây là địa bàn chiến lược, có thể tạo sức nặng mặc cả với ta tại
Hội nghị
Thế nhưng, bom đạn không làm sờn lòng những chiến sĩ
anh hùng - hầu hết đều rất trẻ. Các anh, anh dũng bám trụ giữ
từng tấc đất Thành cổ. Trong một ngày, các chiến sĩ đã
phải đánh địch phản kích từ 5-7 lần, có khi 13 lần. Cuộc chiến đấu ở đây
đã diễn ra như một huyền thoại và cách đánh cũng vượt ra những qui ước thông
thường với những tấm gương quả cảm: Phan Văn Ba nát một bàn tay vẫn xin ở lại,
Hán Duy Long dùng trung liên kẹp nách truy kích diệt 58 tên địch, 3 lần bị
thương vẫn giữ vững trận địa... Ở đây, lựu đạn phải để xì khói trên tay mới ném, phải trèo lên tường cao ném xuống hoặc bò sát
miệng hầm của địch mà liệng vào... Cuộc chiến đấu anh hùng 81 ngày đêm bảo vệ
Thành cổ Quảng Trị kết thúc bằng thất bại của một đội quân xâm lược đông trên 5
vạn tên với thừa thãi sức mạnh bom đạn, một lần nữa làm sáng ngời chân lý: Kẻ
xâm lược có vũ khí tối tân đến đâu cũng phải khuất phục trước những con người
có ý chí thép gang, một lòng chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Máu của chiến sĩ và đồng bào ta đã đổ
xuống, tô thắm cho trang sử vẻ vang của dân tộc, để xanh ngời cỏ non Thành cổ
hôm nay. Di tích Thành cổ hôm nay chỉ là
một gian nhà truyền thống, những quả pháo nằm rải rác chung
quanh một nấm mồ khổng lồ mang tính biểu tượng. Trong lòng nó chỉ vỏn vẹn cây
súng và bộ quân phục giản đơn của người lính nhưng chất chứa biết bao suy tưởng.
Đến Thành cổ, thắp một nén hương ở mảnh đất thiêng liêng ấy, chưa bao giờ bạn cảm
nhận giai điệu bi tráng của hành khúc “Hồn tử sĩ” vang lên với nhiều cung bậc cảm
xúc đến vậy!
(Cinet)
Thái Bình - Khu di tích các vua Trần
Khu di tích các vua Trần
06/06/2007, 09h19
Vị trí:
Khu di tích các Vua Trần thuộc xã Tiến Đức và xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà, tỉnh
Thái Bình.
Đặc điểm:
Khu di tích nhà Trần đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa di
tích khảo cổ học cấp quốc gia.Nó chẳng những thu hút các nhà nghiên cứu sử học,
các nhà văn hóa mà còn là một điểm du lịch có giá trị đặc biệt, là nơi liên
quan đến cội nguồn dân tộc luôn luôn hấp dẫn du khách trong và ngoài nước về
thăm.
Mảnh
đất Hưng Hà - Thái Bình là nơi chứa đựng những dấu ấn lịch sử gắn chặt với triều
đại nhà Trần (1226 - 1400), các vua khai sáng nhà Trần đều được sinh ra tại
đây, gia tộc nhà Trần dựa vào đây dấy nghiệp. Khi đã thành vương triều Trần,
vùng đất này được chọn làm nơi xây dựng các đền thờ, lăng
tẩm của Hoàng tộc nhà Trần.
Nơi
đây có di chỉ khảo cổ mộ các vua Trần (xã Tiến Đức); khu lăng mộ thái sư Trần
Thủ Độ, đình Khuốc, đình Ngừ thờ thái sư, mộ và đền thờ Linh từ quốc mẫu Trần
Thị Dung (xã Liên Hiệp); Tam đường - là nơi lưu giữ hài cốt của các tổ tiên triều
Trần như: Thuỷ tổ Trần Kinh, thái tổ Trần Hấp, nguyên tổ Trần Lý, thái thượng
hoàng Trần Thừa ... Các hoàng đế nhà Trần như Trần Thánh Tông, Trần Thái Tông,
Trần Nhân Tông cùng các hoàng hậu sau khi qua đời đều được quy về hợp táng tại
các lăng mộ có tên Thọ lăng, Chiêu lăng, Dự lăng, Quy đức lăng...
Cùng
với lăng mộ, nhà Trần còn cho xây dựng các cung điện
như điện Tịnh Cương, điện Hưng Khánh, điện Thiên An, điện Diên Hiền.
Lịch
sử Việt Nam thế kỷ 13, 14 (từ 1226 - 1400) gắn liền với công lao và sự phát triển
rực rỡ của vương triều nhà Trần. Những chiến công lừng lẫy của 3 lần đánh thắng
quân xâm lược Nguyên Mông, cùng với các cuộc chinh phạt quân Chiêm Thành phía
Nam đã làm cho khoa học và nghệ thuật quân sự của triều Trần đạt được những
thành tựu vượt bậc. Dưới đời Trần, các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội đều
phát triển cao, tạo nên nền văn hóa đặc sắc của nước Đại Việt thời Trần. Tên tuổi
của các vị vua Trần cùng các chiến thắng Đông Bộ Đầu, Chương Dương, Hàm Tử, Tây
Kết, Bạch Đằng ... mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.Bởi những ý
nghĩa và giá trị văn hóa lịch sử quý giá trên, khu di tích nhà Trần thuộc xã Tiến
Đức, xã Liên Hiệp đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa di tích
khảo cổ học cấp quốc gia. Vì vậy, nó chẳng những thu hút các nhà nghiên cứu sử
học, các nhà văn hóa mà còn là một điểm du lịch có giá trị đặc biệt, là nơi
liên quan đến cội nguồn dân tộc luôn luôn hấp dẫn du khách trong và ngoài nước
về thăm.
Cinet
Thái Nguyên - ATK - An toàn khu kháng chiến
ATK - an
toàn khu kháng chiến
06/06/2007, 09h29
Vị trí: ATK thuộc xã
Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
Đặc điểm:
Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã sống và
làm việc từ 1947 - 1954 để lãnh đạo cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp.
Ðiểm
di tích lịch sử ATK này đã được Nhà nước xếp hạng quốc gia năm 1981.
Hiện
nay, ATK còn nhiều di tích về nơi ở và làm việc của Bác như nền nhà, hầm làm việc,
cây râm bụt Bác trồng, phiến đá Bác thường nằm nghỉ trưa... ATK
là nơi ghi lại nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Ngày
6/12/1953, tại đồi Tỉn Keo, Bộ Chính trị BCH TW đã họp thông qua kế hoạch tác
chiến - tấn công chiến lược Ðông Xuân 1953- 1954 để làm nên chiến thắng Ðiện
Biên Phủ lẫy lừng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ của
dân tộc. Nhiều sắc lệnh quan trọng của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được ký
ban hành tại đây, trong đó có luật về nghĩa vụ quân sự, sắc lệnh tổng động
viên... về giảm tô và cải cách ruộng đất... Thủ đô ATK cũng
là nơi diễn ra các hoạt động ngoại giao của nước ta thời ấy.
Năm
1990 tại đồi Tỉn Keo, tỉnh Thái Nguyên đã xây bia tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí
Minh, phòng trưng bày di tích lịch sử, nhà khách... Tại trung
tâm xã Phú Ðình cũng đã xây dựng nhà truyền thống, giới thiệu trưng bày nhiều
hiện vật quý.
Bên cạnh các di tích chính như đồi Tỉn Keo, Khuôn Tát, Nà Nom... cụm di tích
ATK còn nhiều địa danh đi vào lịch sử như: đèo De, núi Hồng, nhà ông Cao Nhật -
một trong những cơ sở cách mạng đầu tiên của Xứ ủy Bắc Kỳ thời kỳ 1939 -1945; rừng
Mấn - nơi đặt trạm liên lạc của Xứ uỷ Bắc Kỳ và là nơi mở lớp huấn luyện chính
trị, quân sự của Ðảng, đồng chí Trường Chinh, Tổng bí thư của Ðảng khi đó và đồng
chí Hoàng Quốc Việt từng qua lại hoạt động ở đây; chùa Mai Sơn - nơi Xứ uỷ Bắc
Kỳ đặt nhà in đặc biệt, in báo Cờ giải phóng và nhiều tài liệu quan trọng; đình
Kha Sơn - nơi thành lập chính quyền cách mạng đầu tiên của xã... Tất cả những di tích lịch sử này đều đã được xếp hạng quốc gia.
|
|
Ðến
với ATK, du khách có thể trở về với một vùng chiến khu xưa, để có thể
hiểu biết thêm về hoạt động của những người con đất Việt đã hiến dâng cho sự
nghiệp bảo vệ đất mẹ yêu quý.
Bảo
tàng có tổng diện tích khoảng 39.000m2 với hơn 3.000m2 sử dụng cho khu
trưng bày, kho bảo quản hiện vật và các hoạt động khác.
Hiện
nay, Bảo tàng lưu giữ hơn 20.000 đơn vị tài liệu hiện vật gốc quý hiếm thuộc di
sản văn hoá của 54 dân tộc Việt
Hệ
thống trưng bày gồm 6 phòng, mỗi phòng sử dụng gần 2.000 đồ vật gồm các đơn vị
hiện vật gốc, ảnh và tài liệu khoa học bổ trợ.
-
Phòng mở đầu: khái quát đặc trưng văn hoá các dân tộc Việt
-
Phòng Việt - Mường gồm dân tộc: Việt, Mường, Thổ, Chứt.
-
Phòng Tày - Thái gồm các dân tộc: Tày, Nùng, Thái, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y.
-
Phòng Mông - Dao và nhóm Nam á khác gồm dân tộc: H'Mông, Dao, Pà Thẻn, La Chí,
La Ha, Cờ Lao, Pu Péo.
-
Phòng Môn - Khmer gồm các dân tộc: Khơ Mú, Mảng, Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu, Khmer,
Ba Na, Xơ Đăng, Cơ Ho, Hrê, M;Nông, Xtiêng, Bru-Vân Kiều, Cờ Tu, Giẻ Triêng, Mạ,
Co, Tà Ôi, Chơ Ro, Brâu, Rơ Măm.
-
Phòng Hán - Hoa, Tạng Miến, Mạ, Ô-Pô-li-nê-di gồm các dân tộc: Hoa, Ngái, Sán
Dìu, Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Lô Lô, Cống, Si La, Gia Rai, Ê Đê, Chăm, Ra Glai,
Chu Ru.
Ngoài
ra, bảo tàng còn có một khu trưng bày ngoài trời hấp dẫn. Bảo
tàng đã thu hút nhiều du khách trong nước, ngoài nước
và kiều bào đến thăm quan, tìm hiểu bản sắc văn hoá các dân tộc Việt
Cinet
Thái Nguyên - Du ngoạn động chùa
Hang
Du ngoạn động Chùa Hang
|
Qua TP. Thái
Nguyên du khách đi bộ 4km đến ngã tư Chùa Hang, rẽ trái 200m tới quần thể di
tích thắng cảnh Chùa Hang và ba ngọn núi đá dài khoảng gần nghìn mét ở thị trấn
Chùa Hang, huyện Đồng Hỷ.
Chùa Hang còn gọi là "Tiên Lữ Động" nằm trong núi Chùa
Hang. Từ xưa sách An Nam chí viết: "Núi Long Tuyền ở Đồng Hỷ rộng
rãi, có thể chứa hơn 300 người, trong núi có đền thờ Phật Thích Ca và các vị phật
tổ, có một cái lỗ nước trong chảy thành ao, có rất nhiều cá".
"Nhân
động làm chùa" kết hợp kiến trúc thiên tạo với văn hoá tâm linh khiến cho
di tích trở nên độc đáo, linh thiêng, huyền ảo.
Cửa động (chùa) có hai câu đối cổ: Phong cảnh thiên nhiên duy đệ nhất/Danh lam nhân tạo nhị vô song. (phong cảnh
thiên nhiên đẹp vào bậc nhất/Danh lam do con người tạo ra thì đẹp cũng không
kém) và đôi liễn thê: Cảnh sắc quang thiên địa/Cương thường tại cổ kim (Cảnh sắc
sáng một vùng trời đất/Cương thường, đạo lý vẫn sáng cả xưa nay).
Du khách bị cuốn
hút ngay từ cửa động, tượng hộ pháp ông Khuyến Thiện cưỡi voi và ông Trừng Ác
cưỡi hổ, tạo sự đường bệ, uy nghi. Vòm hang mở rộng lô nhô chùm nhũ đá, hình
mây già vờn trên trần hang, đá quái chơi vơi, những cột đá ba người ôm không xuể...
Tượng Phật Adiđà cao trên 3m, ngự trên toà sen, hai tay xếp bằng kết ấn thiền định,
khuôn mặt nhân từ, mình mặc cà sa.
Hình
dáng Phật tổ, nhưng trên đầu đội lá sen lớn, biểu đạt chùa Hang thờ vị Tiên nữ
trong truyền thuyết "Tiên Lữ Động".
Với nhũ đá hình ông Bụt ốc, cột đá to hình Lin ga, biểu tượng Đường Tăng đi lấy
kinh... Dùng đèn pin, đèn ắcquy, du khách ưa mạo hiểm có thể khảo sát đường
"lên trời", xuống "âm phủ" dài trên trăm mét, từ đây luồn
ngoằn ngoèo trong lòng núi đá chùa Hang với các ngách thông gió, chiếu sáng, tạo
cho động mát mẻ, trong lành, thách thức du khách. Thật hiếm di tích danh thắng
có sự giao thoa âm hưởng văn hoá vật thể với phi vật thể kỳ thú đến vậy!
Núi đá Chùa Hang
dài gần nghìn mét, đỉnh núi cao cách chân núi khoảng 100m, có ba ngọn nối tiếp
qua yên ngựa, gợi bức tranh hùng vĩ. Đặc biệt có ngọn núi tách hẳn ra như một tảng
đá khổng lồ tựa như tháp nghiêng Pisa (Italia), xung quanh nhiều phản đá, mỏm
đá nom như vịnh Hạ Long trên cạn rất tiện bám ngồi, leo núi, ngắm cảnh.
Du
khách còn được Ni trưởng Thích nữ Đàm Hinh (92 tuổi) làm lễ cho.
Nhà sư có công bảo vệ, phát huy giá trị động Chùa Hang với nhiều việc tốt đời,
đẹp đạo: Gần 100 ngôi chùa, phòng học, trạm xá, trạm biến áp, cầu treo, đường
sá, chuông đồng và tượng Bác Hồ được tăng ni, phật tử tâm đức góp sức, tiền của
tạo dựng; vào đầu xuân 2005 đã hiến 10 tấn đồng đúc chuông chùa Cổ Lễ (Trực
Ninh - Nam Định). Chuông cao 4,2m, rộng 2,2m, dày 4cm, nặng 9 tấn đồng và trị
giá 1,3 tỉ đồng... một kiệt tác trong kỷ lục Guinness Việt Nam.
(Cinet)
Tây Ninh - Toà thánh Cao Đài
Toà thánh Cao Đài
06/06/2007, 08h28
Vị trí: Toà thánh Cao
Đài được xây dựng tại làng Long Hoa, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, cách thị
xã Tây Ninh 4km về phía đông nam.
Đặc điểm:
Ðạo Cao Ðài ra đời vào năm 1926 ở Tây Ninh. Tòa thánh Cao Đài
là một công trình kiến trúc nghệ thuật nổi tiếng, được bắt đầu xây dựng vào khoảng
năm 1926.
Toà
thánh toạ lạc trong một khuôn viên rộng khoảng 1km².
Nổi bật trong quần thể kiến trúc là đền Thánh, với những đặc
trưng tiêu biểu cho kiến trúc đền, chùa của tôn giáo Cao Đài. Công trình thể hiện sự hài hoà giữa mỹ thuật kiến trúc Á Đông và
Phương Tây. Với các vòm mái và hoa văn trang trí khéo
léo, tinh xảo thể hiện tinh thần tam giáo.
Tại đây còn có một số kiến trúc đẹp và kì vĩ khác nằm
trong quần thể như cổng Chánh môn, các tháp mộ, đền thờ Phật Mẫu. Ðặc biệt là Bá huê viên với nhiều cây cảnh, nhiều loại hoa và cỏ lạ.
Lễ hội lớn nhất hàng năm diễn ra nơi đây là vía Ðức Chí Tôn
(ngày 9 tháng giêng âm lịch). Lễ hội đậm đà bản sắc
dân tộc và cuốn hút hàng vạn du khách từ mọi miền đất nước về dự và chiêm bái
thưởng ngoạn cảnh quan. Du khách có dịp đi chợ Long Hoa, một chợ lớn nhất
Tây Ninh, có bán các thực phẩm chay phong phú, đa dạng và bạn sẽ được thưởng thức
những món ăn "chay giả mặn" thật độc đáo, khéo léo và ngon miệng.Biểu
tượng của đạo Cao Ðài là Thiên Nhãn. Ngoài việc thờ Thiên Nhãn, đạo Cao Ðài còn
thờ Phật Thích Ca, Phật Bà Quan Âm, Chúa Giê-su, Khổng Tử, Lão Tử,...
Cinet
Thanh Hoá - Di tích lịch sử Lam Kinh
Di tích lịch sử Lam Kinh
06/06/2007, 09h43
|
|
Vị trí: Thành Lam kinh
thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hóa
51km về phía tây.
Đặc điểm:
Được xây xựng bởi vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi), thành Lam Kinh còn có tên là Tây
Kinh.
Nơi
đây có lăng Lê Thái Tổ và bia Vĩnh Lăng mô tả ngắn gọn, cô đọng toàn bộ sự nghiệp
của vua Lê Thái Tổ do Nguyễn Trãi biên soạn; Hựu lăng - Lăng vua Lê Thái Tông;
Lăng Khôn Nguyên - Lăng Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Giao (mẹ Vua Lê Thánh
Tông); Chiêu Lăng - Lăng vua Lê Thánh Tông; Dụ Lăng - Lăng vua Lê Hiến Tông;
Kính Lăng - Lăng vua Lê Túc Tông; Đền Lê Lai.
Từ
thành phố Thanh Hóa, theo tỉnh lộ 15A đi về hướng tây 51km, du khách sẽ gặp chiếc
"nôi vàng". Ðó là Lam Kinh, nơi bắt đầu của thời kỳ hậu Lê trong lịch
sử Việt
Thành
điện Lam kinh phía Bắc dựa vào núi Dầu (gọi là du sơn) mặt nam nhìn ra sông -
có núi Chúa làm tiền án, bên tả là rừng Phú Lâm, bên hữu là núi Hương và núi
Hàm Rồng chắn phía Tây. Khu Hoàng thành, cung điện và Thái miếu ở Lam Kinh được
bố trí xây dựng theo trục Nam - Bắc trên một khoảng đồi
gò có hình dáng chữ vương. Bốn mặt xây thành có chiều dài 314m, bề ngang 254m,
tường thành phía Bắc hình cánh cung có bán kính 164m, thành dày 1m.
Về Lam Kinh du khách sẽ được thưởng thức hương vị cay cay ngọt ngọt của chè lam
Phủ Quảng, một loại bánh làm bằng bột gạo nếp, mật mía, trộn lẫn lạc và gừng và
được nếm cái dẻo quạnh, đen nhanh nhánh của bánh gai Tứ Trụ, cái béo ngậy, giòn
thơm của cá rô Ðầm Sét rán vàng; những sản phẩm nổi tiếng của Lam Kinh.
Lam Kinh là đây chiếc "nôi vàng" của những sự tích ngọc. Chuyện về một nhà sư già mách Lê Lợi táng linh xa vào mảnh đất hình
quốc ấn. Thế đất xoáy ốc, trước mặt có núi Chiêu làm hương án, tả có núi
Rồng chầu về, hữu có núi Hồ chầu lại, tay phải Hồ Thuỷ, tay trái Long Sơn liên
kết như chuỗi hạt châu phát ngôi Thiên tử. Chuyện về cây gươm thần do Lê Thận,
người dân chài lưới trên sông dâng tặng, 10 năm theo Lê Lợi tung hoành trận mạc,
để rồi sau khi đất nước thanh bình trả lại Rùa vàng làm nên sự tích Hồ Hoàn Kiếm
giữa lòng thủ đô. Chuyện về lá rau cải in hình quả Quốc ấn,
người vợ Lê Lợi làm vườn bắt được quả ấn vàng có chữ Lê Lợi đề trên lưng ấn.
Chuyện về cô gái áo trắng chết nằm bên sông hóa hồ ly đánh lạc hướng kéo đàn
chó ngao cùng lũ giặc Minh chạy ra khỏi nơi Lê Lợi
đang ẩn nấp, cứu nhà vua một phen thoát hiểm. Chuyện về Lê Lai, lãnh tụ thứ hai
của nghĩa quân, một trong số mười tám người ở Hội thề Lũng Nhai, đổi áo bào, nhận
cái chết về mình, liều mình cứu chúa. Hàng năm vào dịp
tháng 8 âm lịch, lễ hội Lam Kinh lại bắt đầu. Ngày giỗ
của Lê Lợi (22/8/1433) được cử hành trọng thể. Tiếng cồng
chiêng âm vang rừng núi. Các điệu múa dân gian: Múa Xéc bùa, múa đèn
Ðông Anh, múa rồng uyển chuyển bay lượn. Các trò chơi: Ném còn, dựng cây nêu,
hát trò Xuân Phả náo nức lòng người.
Cinet
Thanh Hoá - Thành Nhà Hồ
Thành nhà Hồ
06/06/2007, 14h12
Vị trí:
Thành Nhà Hồ thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, cách Hà Nội khoảng 150km.
Đặc điểm:
Thành do Hồ Quý Ly xây dựng vào năm 1397 bằng những khối đá xanh rất lớn và
kiên cố.
Thành
nhà Hồ hay còn được gọi là thành Tây Ðô.
Thành
được xây dựng vào năm 1397 thời nhà Hồ. Thành có hình vuông, mỗi cạnh dài gần
500m, được xây bằng đá xanh cao khoảng 4,2m. Thành có 4 cửa.
Cửa phía
Sau
khi xây xong thành, Hồ Quý Ly đã dời triều từ Thăng Long về Tây Ðô.
Nhưng nhà Hồ đã tồn tại được 7 năm (1400-1406).
Trải
qua hơn 6 thế kỷ cho đến nay toà thành còn lại cửa phía
Cinet
TPHCM - Địa đạo Củ Chi
Ðịa đạo Củ Chi
06/06/2007, 14h33
|
|
|
Vị trí: Ðịa đạo Củ Chi
là một di tích lịch sử cách mạng nổi tiếng, thuộc xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi,
cách trung tâm Tp. Hồ Chí Minh 70km về phía tây bắc.
Ðặc điểm:
Ðịa đạo quả là kỳ quan độc nhất vô nhị: dài 250km chạy ngoắt ngoéo trong lòng đất,
được làm nên từ dụng cụ thô sơ là lưỡi cuốc và chiếc ki xúc đất.
Ðường
hầm sâu dưới đất từ 3 - 8m, chiều cao chỉ đủ cho một người đi lom khom.
Căn hầm đầu tiên ở ngay bìa rừng có giếng ngầm cung cấp nguồn nước uống và sinh
hoạt cho toàn khu vực địa đạo. Giếng sâu 15m, trong vắt.
Hệ thống địa đạo gồm 3 tầng, từ đường "xương sống" toả ra vô số nhánh
dài, nhánh ngắn ăn thông nhau, có nhánh trổ ra tận sông Sài Gòn. Tầng một cách
mặt đất 3m, chống được đạn pháo và sức nặng của xe
tăng, xe bọc thép. Tầng 2 cách mặt đất 5m, có thể chống được
bom cỡ nhỏ. Còn tầng cuối cùng cách mặt đất 8-10m hết sức an toàn. Ðường lên xuống giữa các tầng hầm
được bố trí bằng các nắp hầm bí mật. Bên trên nguỵ
trang kín đáo, nhìn như những ụ mối đùn, dọc đường hầm có lỗ thông hơi.
Liên hoàn với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi, có nơi dự trữ vũ khí, lương
thực, có giếng nước, có bếp Hoàng Cầm, có hầm chỉ huy, hầm giải phẫu... Còn có cả hầm lớn, mái lợp thoáng mát, nguỵ trang khéo léo để xem
phim, văn nghệ.
Hãy
một lần chui vào địa đạo, ta sẽ thấy rõ chiều sâu thăm thẳm của lòng căm thù, ý
chí bất khuất của "vùng đất thép" và sẽ hiểu vì sao một nước Việt Nam
nhỏ bé lại chiến thắng một nước lớn và giàu có như Hoa Kỳ? Ta cũng sẽ hiểu vì
sao Củ Chi - mảnh đất nghèo khó lại đương đầu ròng rã suốt 20 năm với một đội
quân thiện chiến, vũ khí tối tân mà vẫn giành thắng lợi. Cũng từ địa đạo này,
cuộc hành quân Crimp (cái bẫy) của Mỹ với 3.000 quân bộ, cuộc hành quân
Sedarfall gồm 12.000 lính, có xe tăng, máy bay yểm trợ tối đa, nhằm biến Củ Chi
thành "khu tự do hủy diệt" đã bị đập tan. Củ Chi thật xứng danh
"đất thép thành đồng" qua 20 năm bền bỉ chiến đấu. Ðiều thú vị nữa khi về thăm mảnh đất
anh hùng này là các hướng dẫn viên đều ăn mặc như hồi
chiến tranh: nam mặc đồ giải phóng, mũ tai bèo; nữ mặc bà ba đen, quàng khăn
rằn và đi dép lốp. Sự có mặt của họ bên trong những búi cây,
ở mỗi khúc quanh khiến du khách có cảm giác đang được sống trong sự thật của Củ
Chi thời đánh giặc. Cảm giác thời chiến rõ nét hơn khi
đĩa sắn luộc, bát muối vừng được đưa mời khách du lịch. Những ly rượu bé
xíu, trong vắt và nồng nàn được gọi đùa là nước mắt quê hương bên đĩa rau mốp
muối chua, giòn và ngon đến lạ. Bạn đừng quên nếm thử món rau
mốp. Rau mốp là lương thực chính của quân dân Củ Chi
ngày trước, còn giờ đây đang là đặc sản.
Cinet
TPHCM - Hội trường Thồng Nhất
Hội trường Thống Nhất
06/06/2007, 14h40
|
|
Vị trí: 106 Nguyễn Du,
quận 1,Tp. Hồ Chí Minh.
Ðặc điểm:
Trước đây vào năm 1873 trên nền đất này là một toà biệt thự tên gọi
là dinh Nôrôđôm- dinh của toàn quyền Ðông Dương ở Sài Gòn.
Năm
1954 Tổng thống nguỵ quyền Ngô Ðình Diệm và đại gia đình họ Ngô đã ở và làm việc
ngay trong dinh Nôrôđôm. Ðến 27/2/1962 dinh Nôrôđôm bị máy
bay ném bom hư hỏng nặng. Diệm đã cho phá huỷ toàn bộ dinh
Nôrôđôm, xây dựng một dinh mới hoàn toàn gọi là dinh Ðộc Lập.
Dinh
có diện tích sử dụng 4500m2 trên khuôn viên đất rộng 120.000m2 gồm 1 tầng hầm,
3 tầng chính, 2 tầng lửng, 1 sân thượng và lầu nghỉ mát gọi là lầu Tứ Phương.
Dinh có 100 phòng, mỗi phòng có cách bài trí riêng theo nội dung từng phòng.
Phòng khánh tiết có sức chứa 800 người... Dinh còn có 2 nhà triển lãm với tổng
diện tích 2.000 m2, một khu nhà khách 33 phòng , nhà phát điện dự phòng công suất
350 KVA và nhiều điểm dịch vụ vui chơi giải trí khác như sân tennis, khu nhà
sàn Tây Nguyên...
11h30'
ngày 30/4/1975 xe tăng quân giải phóng đã tiến thẳng vào dinh Ðộc Lập, chính phủ
Ngụy gồm 45 người cùng tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện.Sau ngày giải phóng, dinh Ðộc Lập là
trụ sở của Uỷ ban quân quản thành phố. Hội nghị hiệp thương thống nhất đất nước
đã họp ở đây vào tháng 12/1975 và dinh Ðộc Lập đã được đổi tên thành Hội trường
Thống Nhất. Ngày nay, hội trường Thống Nhất đã trở thành khu di tích lịch sử
văn hoá được đông đảo khách trong nước và nước ngoài đến tham quan.
Cinet
Tuyên Quang - Khu di tích lịch sử
Tân Trào
Khu di tích lịch sử Tân Trào
06/06/2007, 15h26
Vị trí: Tân Trào thuộc
huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, cách thị xã Tuyên Quang khoảng 41km về phía
tây bắc, cách Hà Nội 200km.
Đặc điểm:
Tân Trào là căn cứ địa của cách mạng Việt
Tân
Trào là một thung lũng nhỏ; thủ đô lâm thời của khu giải phóng, nơi Ðảng cộng sản
Việt
Những
di tích chính ở Tân Trào:
+
Ðình Tân Trào: nơi họp đại hội quốc dân ngày 16/8/1945.
+
Ðình Hồng Thái: nơi đón tiếp các đại biểu về dự đại hội.
+
Cây đa Tân Trào: cách đình Tân Trào khoảng 100m về phía bắc. + Lán của Chủ
tịch Hồ Chí Minh ở Nà Lừa. Lán do đơn vị giải phóng quân dựng để Người ở và làm
việc từ tháng 6/1945 đến cuối tháng 8/1945, Người về Hà Nội.
Cinet
Vĩnh Long - Cầu Mỹ Thuận
Cầu Mỹ Thuận
06/06/2007, 15h30
Vị trí: Cầu bắc qua
sông Tiền, nối hai tỉnh Vĩnh Long và Tiền Giang.
Đặc điểm: Đây
là cây cầu dây văng lớn nhất Việt
Cầu
được khởi dựng ngày 06/7/1997, khánh thành ngày 21/5/2000.
Tổng
chiều dài của cầu là 1.535 m, hai cầu dẫn mỗi bên 11 nhịp, mỗi nhịp 40 m. Chiều
dài phần cầu chính là 650 m, chia thành 3 nhịp, hai nhịp bên mỗi nhịp dài 150
m, nhịp giữa dài 350 m. Độ cao thông thuyền là 37,5 m. Mặt cầu rộng 23,6 m chia
thành 4 làn xe cơ giới ở giữa và hai làn cho người đi bộ và xe thô sơ hai bên.Cầu
Mỹ Thuận là công trình hợp tác giữa các chuyên gia, kỹ sư và công nhân của hai
nước
Australia và Việt Nam, một công trình giao thông có kiểu dáng kiến trúc duyên
dáng trên quốc lộ 1A, thu hút khách du lịch mọi miền.
Cinet