Danh lam thắng cảnh
An Giang - Hà Tiên
Hà Tiên
|
|
Gần đây, khách du lịch khi hành
hương đến lễ vía Bà Chúa Xứ ở núi Sam (Châu Đốc - An Giang) còn tham quan nhiều
thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa dân tộc khá đẹp như chùa Tây An, lăng Thoại
Ngọc Hầu, chùa Hang, vườn Tao Ngộ, đồi Bạch Vân.. Và một khi đã cảm thấy mỏi
chân khi phải leo cao với những dãy núi, nhiều người lại tìm đến miền gió biển
của Hà Tiên.
Đến thăm Hà Tiên, khách du lịch
không thể không đến bãi tắm mũi Nai. Sau khi thỏa thích vui đùa với sóng biển,
mọi người có thể thưởng thức các món ăn hải sản như tôm tích, mực tươi, ghẹ lột
từ dưới biển đưa lên vừa ngọt, vừa mềm. Trên đường vào mũi Nai, khách có thể
ghé lại ghi hình Thạch Động gió lồng lộng. Rời khỏi thị trấn Hà Tiên, dọc theo
đường vào Chông để tham quan chùa Hang cổ kính với những tượng Phật uy nghiêm,
chúng ta sẽ được đi luồn dưới một tảng đá to, âm u đọng nước, và phía trước mặt
hiện ra một bầu trời, bãi biển trong xanh ngập đầy hương biển. Nơi đây với hòn
Ông, hòn Bà, hòn Phụ Tử, giếng Tiên cũng là một trong những thắng cảnh đẹp cho
người du lịch thưởng ngoạn bằng phương tiện ghe máy với hướng dẫn viên
"nhí" người địa phương.
Ngoài ra còn có hang Kim
Cương (hay còn gọi là hang Thạch Sanh) gồm những tảng đá lấp lánh thủy tinh,
trông xa
Thạch Động Hà Tiên
Từ thị trấn Hà Tiên (Kiên Giang)
ngược theo hướng Tây - Bắc khoảng 3 km, nằm sát quốc lộ 17, du khách sẽ thấy một
tảng đá xanh khồng lồ trông tựa hình ảnh của một chiếc mũ lông - Đó chính là Thạch
Động.
Cách đây trên 260 năm, nhà
chính trị, nhà thơ Mạc Thiên Tích có bài thơ "Thạch động thôn vân"
nghĩa là "Động đá nuốt mây" trong chùm thơ nổi tiếng ca ngợi mười cảnh
đẹp của Hà Tiên - Hà Tiên Thập Cảnh. Thật vậy, vì cửa động ở độ cao đến 50 mét
nên vào những buổi sáng tinh sương, có những chùm mây trắng bay là đà ngang đỉnh
động, chúng dừng lại rồi từ từ lan rộng tỏa quanh cửa động, lúc đó ta có cảm tưởng
như động đá đang nuốt mây. Cảnh thật ngộ và đẹp tuyệt vời.
Bên trong cửa động là chiếc
hang khá rộng, không khí mát rượi, thoáng đãng vô cùng. Những giọt nước mưa
theo năm tháng xâm thực đá, len lách rỉ chảy xuống hang, rồi hòa tan với chất
vôi tạo thành những thạch nhũ có hình thù kỳ lạ. Từ trong hang có một ngách
hang ăn thông lên trời, du khách mổi khi ngước nhìn lên sẽ trông thấy một khoảng
trời xanh trong vắt. Ngoài ra, còn có một ngách hang khác ăn sâu thẳm xuống
lòng đất, tương truyền thông ra tận bãi biển Mũi Nai. Có người đã thử thả xuống
đó một trái dừa khắc dấu sau đó đón vớt được ở bãi biển này. Hai con đường được
gọi là đường "lên trời" và đường xuống "âm phủ".
Vào những lúc đẹp trời, những
làn gió nhẹ vi vu xuyên qua khe đá chạm phải vách tạo ra muôn vàn âm thanh cực
kỳ huyền bí, có lẽ chưa có một nhạc cụ nào trên thế gian lại có được những âm
thanh
Đến thăm Thạch Động, đầu óc
du khách như được thư giãn, tâm hồn như trở nên thanh thoát tựa như trút bỏ
lại sau lưng những tục lụy khổ sầu.
An Giang -
Thiên Cấm Sơn - Khúc
lãng du giữa đồng bằng
|
Nằm cách trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 90km
theo Quốc lộ 91 rẽ qua tỉnh lộ 948, núi Cấm hay Thiên Cấm Sơn, là ngọn núi cao
nhất, lớn nhất nằm trong dãy Thất Sơn hùng vĩ thuộc xã An Hảo, huyện Tịnh Biên,
tỉnh An Giang.
Ở
độ cao 710m từ trên Vồ Bò Hong nhìn xuống chùa Phật Lớn (thuộc ấp An Bình, xã
An Hảo), núi Cấm uy nghi, hùng vĩ mọc lên giữa vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đứng
trên đỉnh Cấm Sơn, du khách ta có cảm giác một lòng chảo lớn bao quanh bởi các
ngọn núi trập trùng thuộc Thiên Cấm Sơn như: Võ Đầu, Vồ Bò Hong, Vồ Thiên Tuế…
Chính vì độ cao và địa hình như vậy, nên từ lâu Núi Cấm được mệnh danh là Đà Lạt
thứ 2 của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nơi đây có khí hậu mát mẻ quanh năm,
nhiều thắng cảnh thiên nhiên độc đáo, thu hút khách du lịch, hành hương nơi đây
sẽ đến với những huyền thoại, truyền thuyết đầy vẻ kỳ thú, bí ẩn.
Về
tên của ngọn núi, truyền thuyết dân gian kể lại rằng: Trước kia Núi Cấm rất hiểm
trở, lại nhiều thú dữ, không ai dám tới, trừ những nhân vật siêu hình được thêu
dệt một cách huyền bí, ngự trị trên thiên đình. Vì thế, một quy định bất thành
văn của những người dân quanh vùng tự cấm mình không được xâm phạm đến khu vực
núi thiêng đó. Một truyền thuyết khác kể lại rằng, ngày xưa Nguyễn Ánh bị quân
Tây Sơn đuổi đánh phải chạy lên núi trốn nên truyền lệnh không cho bất cứ ai
lên núi và từ đó núi có tên là Núi Cấm.
Dưới
chân núi về phía Đông là khu du lịch Lâm Viên Núi Cấm, diện tích khoảng 100ha
có các dịch vụ giải trí đa dạng, nhà hàng Kaolin nơi phục vụ các món ăn đặc sản
vùng Bảy Núi. Từ Lâm Viên theo lối mòn lên núi, du khách có thể dừng bước chân
lãng du đầm mình trong dòng suối Thanh Long mát rượi, một con suối thiên nhiên,
thơ mộng, vừa để nghỉ dưỡng sức khoẻ. Tiếp tục cuộc hành trình lên đến ngã ba,
du khách đã bước vào khu “Cao nguyên Núi Cấm”. Rẽ phải khoảng chừng 1km là đến
Vồ Thiên Tuế, tiếp theo trở về ngược hướng trái theo đường dốc lên chùa Phật Lớn,
trên đường đi du khách ghé thăm Động Thuỷ Liêm, qua Ô Cát thăm Vồ Bạch Tượng (một
tảng đá lớn có hình con voi trắng đứng uy nghi bên sườn núi). Tiếp đến là chùa
Phật Lớn, chùa Vạn Linh, rồi đến Vồ Bò Lớn, chùa Vạn Linh, rồi đến Vồ Bò Hong -
đỉnh cao nhất của Núi Cấm và cũng là đỉnh cao nhất vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Tại đây, vào ngày thời tiết không mưa, nắng đẹp bạn có thể phóng tầm mắt
ngắm nhìn ra tận vùng biển Hà Tiên.
Giữa
mênh mông, bạt ngàn màu xanh cây trái của vùng đồng bằng sông Cửu Long, Cấm Sơn
hiện hữu, sừng sững đem đến cho du khách một cảm nhận mới, một khúc lãng du êm
dịu giữa đồng bằng.
(Cinet T.H)
Bạc Liêu - Miền sông nước
Bạc liêu
Bạc Liêu có một con đường rất độc đáo mà du khách du lịch thường đến. Con đường
mang tên người đã sinh ra bản Dạ Cổ hoài lang - tiền thân của những bài bản vọng
cổ sau này - đó là nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Có thể nói, những đặc thù du lịch của
vùng đất bạc liêu đều tập trung ở con đường dài hơn... 10km này. Vừa rời khỏi
trung tâm thị xã Bạc Liêu là nhà lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Vào đây, bạn sẽ
được nghe kể về người cha của bản Dạ Cổ hoài lang, trường hợp ra đời của nó.
Xa hơn một chút, cách thị xã
Bạc Liêu 4km là vườn chim với hơn 30 loại. Trong đó có những loại chim quí
Cái lạ của rẻo đất này là bên
cạnh khu rừng đặc thù là những giống cát chạy dài 14 km cặp theo ven biển Đông.
Không ở đâu có những cây nhãn trường thọ như Bạc Liêu. Hương vị ngọt đậm đà,
thơm ngon rất lạ. Cũng tại nơi này còn có một ngôi chùa Khơ Me tên Xiêm Cán được
xây dựng từ năm 1887 với kiến trúc Khơ Me được cách tân độc đáo.
Rời vườn nhãn, khách sẽ thấy
trước mặt mình là cánh đồng muối trắng tinh. Tham quan ruộng muối, khách sẽ được
chứng kiến một nghề truyền thống lâu đời với cách làm muối đã có hàng trăm năm.
Muối Bạc Liêu được xem là ngon nhất nước, hơn cả muối Sa Huỳnh nổi tiếng.Giữa đồng
muối là khu nuôi tôm công nghiệp. Đến đây khách được hiểu rõ qui trình từ lúc
con tôm còn ấu trùng cho đến khi thành thương phẩm xuất ra nước ngoài.
Cuối cùng là bãi biển mà theo
khảo sát là một trong những bãi tắm sạch đẹp, hiếm hoi của Đồng Bằng Sông Cửu
Long với 3 cái nhất mà không phải nơi nào trong nước cũng có: độ lún của cát,
dòng chảy của nước và cường độ của gió. Thị xã Bạc Liêu vừa cho đào xong con
kênh 30.4 nối liền thị xã ra biển, biến nơi đây thành làng cá. Hiện nay, sau
khi tắm biển, khách có thể thả bộ tham quan làng cá, tìm hiểu nếp sống, sinh hoạt
của dân làng chài.
Trên bãi tắm là tượng phật Bà
Nam Hải do ngư dân dựng lên. Sau tết nguyên đán dân Bạc Liêu và tứ xứ đổ về lễ
hội Bà, cầu được tai qua nạn khỏi, một năm làm ăn sung túc. Đáng tiếc, bãi biển
lý tưởng là thế cũng chưa được ngành du lịch đầu tư đưa vào khai thác để
người dân muốn tắm biển cứ phải đợi dịp đi tham quan ra tận Vũng Tàu, Nha
Trang.
Bắc Cạn - Hồ Ba Bể
Hồ Ba Bể
18/06/2007, 07h51
|
|
Vị trí: Hồ Ba Bể gần thị
trấn Chợ Rã, thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, cách Tx. Bắc Kạn 70km.
Đặc điểm: Ba Bể là hồ kiến tạo lớn nhất miền Bắc Việt
Nam giữa vùng đá phiến và đá vôi.
Từ
Hà Nội theo đường số 3 qua Thái Nguyên, đến Tx. Bắc Kạn và đi tiếp 35km đến thị
trấn Nà Phặc, sau đó rẽ trái sang quốc lộ 279, đến thị trấn Chợ Rã và tiếp tục
khoảng 10km là đến hồ Ba Bể.
Hồ
dài hơn 8km, chỗ rộng nhất khoảng 3km, sâu khoảng 20 đến 30m. Ðoạn giữa hồ hơi
eo lại. Có hai đảo nhỏ nổi lên giữa hồ, một đảo giống như con ngựa đóng cương
đang lội nước (nên còn gọi là đảo An Mã).
Hồ
Ba Bể ở độ cao 145m so với mặt nước biển, diện tích mặt hồ khoảng 500ha được
bao bọc bởi những dãy núi đá vôi có nhiều suối ngầm và hang động. Toàn cảnh hồ
như một bức tranh thuỷ mặc, làm say lòng nhiều du khách từ xưa đến nay.
Đến
Hồ Ba Bể, du khách có dịp được dạo quanh hồ nước trong xanh bằng thuyền độc mộc
rất đặc trưng của dân tộc bản địa hoặc bằng thuyền máy rồi ra sông Năng và thăm
thú nhiều thắng cảnh tự nhiên.Tối
đến, có thể ngủ lại ở khu nhà gần hồ hoặc ngay tại nhà của người dân tộc Tày,
Nùng,…
Cinet
Bến Tre - Du lich dừa xanh
Du lịch xứ dừa xanh
|
Bến Tre là vùng đất đặc biệt với du khách. Mảnh đất
miệt vườn này nổi tiếng với sông nước cây xanh và những sản phẩm du lịch dân
dã.
Đến
với Bến Tre, du khách nhìn đâu cũng thấy những căn nhà bình dị ẩn trong những
vườn cây xanh ngát. Đi du lịch Bến Tre khách hay chọn đi Cồn Phụng. Thực ra đây
là sản phẩm du lịch chung của Bến Tre và Tiền Giang vì Cồn Phụng nằm giữa sông
Tiền, đoạn giữa Bến Tre và Tiền Giang.
Bến
Tre là một vùng đất khá đặc biệt, như một hòn đảo lớn nổi giữa vùng đồng bằng
Nam Bộ. Đây là một tam giác giữa các nhánh sông Tiền mà đỉnh là vùng Chợ Lách,
Cái Mơn, cạnh đấy là vùng bờ biển sình lầy, nhiều chỗ còn hoang vu.
Một
trung tâm nữa là Cái Mơn thuộc huyện Chợ Lách, vùng chuyên canh rau, trái cây
và hoa cảnh. Những con đường ở đây thật hiền hòa. Dừa ngút ngàn. Nếu đứng bên bờ
một dòng sông hay một con lạch, một dòng kênh nhìn sang thì chỉ thấy một màu dừa
xanh ngăn ngắt. Vùng thôn quê Bến Tre vẫn còn lại nhiều căn nhà cổ, cửa gỗ chấn
song và mái lợp ngói ống. Ngoài sân không thể thiếu một cây hoa mai vàng rực rỡ,
một cây rơm óng mượt và bàn thờ thiên nấp vào bóng một cây cổ thụ. Đến đây,
khách được tham quan cả lò kẹo dừa, kẹo chuối mà những nơi này thật thú vị. Bến
Tre nổi tiếng với "Bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc" mà cả hai
vùng này đều thuộc đất Giồng Trôm.
Sân
chim Vàm Hồ (Ba Tri - một trong hai trung tâm du lịch lớn của Bến Tre) nằm ngay
bên bờ sông. Sân chim rộng 17ha, trồng toàn chà là, gai. Chỉ có một con đường
nhỏ, dài độ 500m dẫn vào bên trong. Muốn vào sâu hơn nữa rất khó đi. Vào khoảng
4 giờ chiều là đến hồi chim về tổ.
Giữa
không gian mênh mông này, những người phiêu lưu mạo hiểm có thể vạch gai chà
là, vào trong đám lá thâm u để nghe tiếng chim kêu xáo xác trên đầu. Những người
ưa thích sự yên tĩnh có thể ngồi trên những mảng cỏ hay cả những chiếc ghế gỗ ở
ven bờ sông và hít thở không khí trong lành và ngắm nhìn khoảng trời xanh
trong. Trước mặt, dòng sông Ba Lai vẫn chảy, đằng xa là cống đập Ba Lai. Và chỉ
còn đi thêm chút ít nữa là ra đến biển.
Ba
Tri nổi tiếng là địa linh nhân kiệt. Đây là nơi lưu dấu của những bậc tiền nhân
hào kiệt như: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản, Phan Văn Trị, Trương Vĩnh Ký,
Trương Gia Mô. Hiện nay ở Ba Tri vẫn còn phần mộ của cụ Nguyễn Đình Chiểu, cụ
Võ Trường Toản và Cụ Phan Thanh Giản. Đêm đến, bên cạnh những bếp lửa tráng
bánh, người ta còn có thể nghe văng vẳng tiếng các cụ già kể chuyện Lục Vân
Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
(Cinet)
Bến Tre - Tràm Chim
Tràm chim
Đi Tràm chim Ba Tri phải đi vào buổi
trưa và bạn sẽ đến vào buổi chiều khi mặt trời còn nằm vàng phía chân trời giáp
ranh với bìa rừng. Cách Tràm Chim 3 cây số đã có thể nhìn thấy những cánh cò chấp
chới về tổ cho kịp trước khi hoàng hôn xuống.
Có thể đến Ba Tri bằng hai hướng :
theo đường bộ từ Mỹ Tho qua phà Rạch Miễu sang Bến Tre bọc vòng huyện Giồng Trôm
đến Ba Tri, hoặc đổ bộ từ bến tàu du lịch Tiền Giang theo đường sông hướng ra
biển khoảng 3 tiếng đồng hồ (nếu thuận con nước) đến Tràm Chim. Với khách du lịch,
đến Tràm Chim bằng tàu thú vị hơn và có thể ngắm được chim về đậu trắng cả bìa
rừng phía sông.
Tàu cập bến Tràm Chim. Khách bước
trên cầu tàu cheo leo
Đến được nơi làm tổ sinh sống của
các cư dân Tràm Chim, bạn nghe một dàn hợp ca vô cùng ngoạn mục. Rừng và chim
chào bạn bằng các ngoại ngữ cộc cộc, quác quác, oà... nghe
Tràm Chim Ba Tri hiện nay chỉ mới
được đầu tư cho du lịch nên còn hoàn toàn vẻ hoang sơ, nhưng chính nét hoang
sơ này đang và sẽ thu hút khách du lịch trong tương lai theo đánh giá của hai
Công ty du lịch Công đoàn Tiền Giang và Bến Tre. Những dịch vụ du lịch hoàn
toàn không có ở Tràm Chim. Đến Tràm Chim bạn phải trở về Mỹ Tho hoặc Bến Tre
trong ngày.
Bình Định - Thắng cảnh Ghềnh Ráng
Thắng cảnh Ghềnh Ráng
18/06/2007, 07h56
|
|
Vị trí: Nằm cách trung
tâm thành phố Quy Nhơn khoảng 3km về phía đông nam.
Đặc điểm:
Ghềnh Ráng đã được Bộ văn hóa thông tin xếp hạng là di tích Quốc gia năm 1991
và được đánh giá là danh lam thắng cảnh bậc nhất của tỉnh Bình Ðịnh.
Truyền
thuyết kể rằng, ngày xưa có một cô gái "sắc nước, hương trời" ở Bồng
Sơn bị bọn tham quan, vô lại truy đuổi định cưỡng bức nên phải chạy trốn vào
Quy Nhơn. Đến Ghềnh Ráng, bỗng dưng sấm chớp bão bùng, núi nứt một khe lớn và
nàng biến mất. Người yêu cô gái tìm đến chỉ còn thấy bóng nàng ẩn hiện trên bầu
trời. Từ đó nơi đây được đặt tên là "Ghềnh Ráng Tiên sa".
Ghềnh
Ráng không chỉ đẹp bởi truyền thuyết mà thực tế cũng là một bức tranh sơn thủy
hữu tình, hiếm nơi nào có được. Phía tây nam núi xanh trùng điệp như muốn vươn
tận trời xanh. Phía đông bắc biển xanh bao la, ôm lấy bãi cát vàng, cong cong
như trăng lưỡi liềm mùa hạ. Đi dọc theo triền núi ta sẽ được chiêm ngưỡng một số
"tác phẩm" tuyệt đẹp của thiên nhiên. Có tảng đá hình đầu sư tử chồm
ra biển như muốn lao xuống dòng nước sâu thẳm. Tượng Vọng phu trầm tĩnh xa xăm.
Rồi những gấu đá, voi đá nằm chầu như đang canh giữ biển trời. Hòn Chồng mới
nhìn tưởng mong manh, có thể đổ sụp bởi một làn gió nhẹ nhưng bao đời vẫn sừng
sững trước phong ba bão táp.
Nơi đây có bãi Đá Trứng hay còn gọi
là bãi tắm Hoàng Hậu vì ngày xưa Nam Phương Hoàng Hậu vẫn thường đến đây để tắm.
Cách bãi Đá Trứng không xa về hướng tây là mộ của nhà thơ Hàn Mạc Tử, được chuyển
dời từ nghĩa địa trại phong Qui Hoà về. Phía sau mộ là nhà lưu niệm có nhiều ảnh,
tư liệu về cuộc đời ông.
Cinet
Bình Định - Làng Du lịch Cà Ná
Làng du lịch Cà Ná
18/06/2007, 08h01
Vị trí:
Làng du lịch Cà Ná nằm sát bờ biển, cách thị xã Phan Rang 32km, cách thành phố
Phan Thiết 114km.
Đặc điểm: Làng du lịch Cà Ná lưng dựa vào núi, mặt quay
ra biển, rất thuận tiện cho du khách đi đường bộ và đường sắt.
Không
khí trong lành mát mẻ, du khách ngồi xe ngựa tới các thắng cảnh của Cà Ná, Mũi
Dinh, những hang động: hang Ông Phật, ghềnh Ông Nồng, giếng Đục, núi Bạc. Khách
có thể tham gia môn thể thao leo núi hoặc vào rừng dạo chơi, tắm biển, đi ca nô
trên mặt biển ngắm nhìn trời mây, nước xanh và quang cảnh núi rừng.Một làng du lịch với những ngôi
nhà nho nhỏ đủ tiện nghi cho 2 người hoặc 4 người nghỉ lại đã mọc lên sát biển
tạo thành một làng du lịch Cà Ná.
Cinet
Bình Thuận - Mũi Né
Mũi Né
18/06/2007, 08h07
|
|
Vị trí: Mũi Né thuộc địa
phận phường Mũi Né, Tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, cách trung tâm Tp. Phan
Thiết 22km về hướng đông bắc.
Đặc điểm:
Mũi Né - nàng công chúa ngủ trong rừng. Địa danh Mũi Né đồng nghĩa với hình ảnh
những cồn cát có một không hai ở Việt
Mũi
Né là tên một làng chài và cũng là một điểm du lịch quen thuộc. Dọc theo quốc lộ
706, từ trung tâm Tp. Phan Thiết đến Mũi Né là một dãy đồi đất thoai thoải và
bãi cát ven biển rộng, thoáng mát với những rặng dừa tuyệt đẹp. Bãi biển nông
thoải, nước sạch và trong, nắng ấm quanh năm, không có bão, là nơi tắm biển,
nghỉ ngơi lý tưởng dành cho du khách. Mũi Né có nhiều bãi biển hoang sơ nguyên
thủy, chưa có sự khai thác của con người, cảnh quan hùng vĩ, môi trường thiên
nhiên trong lành, như bãi Ông Ðịa, bãi Trước và bãi Sau.
Ðến Mũi Né, du khách có thể tắm
biển, nghỉ dưỡng, chơi thể thao, du thuyền trên biển, dã ngoạn kết hợp săn bắn,
câu cá, chơi golf... Tại Mũi Né còn có Ðồi Cát, nơi từ bao năm qua đã trở thành
đề tài sáng tác của nhiều nghệ sĩ nhiếp ảnh. Ngoài các bãi biển và cồn cát, khu
vực này còn có nhiều cảnh đẹp như suối Tiên, lầu Ông Hoàng, tháp Chàm
Pô-Sha-Nư. Dọc bãi cát ven biển là các làng du lịch, các khách sạn, biệt thự và
nhiều công trình thể thao, giải trí.
Cinet
Cà mau - Hòn Khoai
Hòn khoai
Nằm cách bờ biển nơi tận cùng
đất mũi 18 km về phiá Đông Nam (trong giới hạn 8024’30"đến 8027’30"vĩ
độ Bắc và 104048’50" đến 104052’32" kinh độ Đông), Hòn Khoai mang vẻ
đẹp mặn mà và huyền bí của một cô gái xứ biển.
Thực ra, Hòn Khoai là cả một quần
đảo bao gồm năm đảo nổi đã có tên là: Hòn Khoai, Hòn Đồi Mồi, Hòn Sao, Hòn Go,
Hòn Khô và bốn đảo chìm khắc còn chưa kịp đặt tên.
Đất ở trên quần đảo là thứ đất
fe-ra-lít màu đỏ vàng và vàng đỏ phát triển trên đá gra-nít. Đây là thứ đất
đang nuôi sống 221 loài thực vật bậc cao thuộc 78 họ tạo nên một "đại
ngàn" phong phú, đa dạng gồm ba kiểu rừng. Kiểu rừng kín thường xanh mùa ẩm
nhiệt đới. Thảm thực vật này nằm vào phần đuôi lớn ở hướng Tây - Tây Nam của đảo.
Cấu trúc của rừng phân thành ba tầng khác nhau. Tầng vượt tán có cây dầu rái
là a hợp hơn cả, nó nằm vào ưu thế sinh thái tán rừng. Tầng dưới tán rừng chủ
yếu là tầng cây gỗ nhỡ và nhỏ (bứa, du, trúc, đào, hòa thảo...). Tầng cây bụi
thấp, cỏ quyết, dây leo thuộc các họ: đậu, thầu dầu, cà phê...
Rừng Hòn Khoai bao gồm nhiều
loại cây có giá trị kinh tế rất cao. Cây ăn trái gồm xoài, quýt, dừa...Cây lấy
gỗ gồm bằng lăng, chiêu liêu, dầu rái, muỗng, ràng vàng (lim), quế quan, rè
vàng, thị rừng, trám mạo, trâm trắng, trường kẹn. Cây làm thuốc có cốt toái bổ
lá lớn, cốt toái bổ lá nhỏ, dây tiết dê, quyết rồng, khoai mài, ngũ gia bì, quế
quan, sầu đâu, thần thông, thiên kim đằng, thiên niên kiện.
Đánh giá về thực vật của Hòn
Khoai, các nhà thực vật học có ý kiến rằng, với 4/5 diện tích đảo Hòn Khoai là
còn rừng. Trong đó sự tồn tại của kiểu rừng kín thông xanh, mưa ẩm nhiệt đới
chiếm 1/2 diện tích của đảo. Kiểu rừng kín nửa rụng lá ẩm nhiệt đới và kiểu rừng
kín rụng lá hơi ẩm nhiệt đới chiếm gần 1/3 diện tích của đảo đã chứng tỏ diện
tích còn rừng nếu ở đây được tổ chức lại sẽ có khả năng bảo dưỡng và hồi phục
nhanh chóng. Với 221 loài thuộc 78 họ thực vật khác nhau còn tồn tại trên đảo
cho thấy hệ thực vật rất thân thuộc với hệ bản địa Việt Nam-Nam Trung Quốc
và Ấn Độ- Myanmar, đồng thời cũng thân thuộc với các khu hệ di cư
Malaysia-Indonesia, Indonesia - Ấn Độ (ít thấy ở đảo nào có diện tích nhỏ
lại phong phú về số loài và số họ như Hòn Khoai).
Đặc biệt trong hệ thực vật của
đảo Hòn Khoai còn ghi nhận được 10 loài mới đối với Việt
Hòn Khoai hiện là môi trường sống
cùa 29 loài thuộc 18 họ, gồm bò sát 7 loài, chim 20 loài, thú 2 loài. Động vật
rừng còn tồn tại một số loài có giá trị và có số lượng cá thể đáng chú ý là: kỳ
đà, rắn mai gầm, rắn ráo, trăn hoa, sóc bụng xám. Đặc biệt loài bản địa của đảo
Có thể nói Hòn Khoai là quần đảo
thiên nhiên đặc biệt ưu đãi cho Minh Hải nói riêng và Việt
Nếu chúng ta thống nhất với nhau
thuật ngữ: "Rừng đặc dụng là rừng mà chức năng chủ yếu nhằm bảo vệ thiên
nhiên, bảo vệ di tích lịch sử, bảo vệ sức khỏe, nghiên cứu khoa học hoặc phục vụ
các lợi ích đặc biệt khác" thì ta có thể lựa chọn rừng ở đảo Hòn Khoai làm
một rừng như vậy. Nơi đây cho phép chúng ta bảo tồn vốn gien của những loài động
vật và thực vật chính thống của bản địa hoặc thân thuộc với các khu hệ di cư của
những vùng lân cận. Chúng ta có thể hình dung mỗi ngày có đôi ba chuyến trực
thăng chở khách trong và ngoài nước ra đây nghỉ chân để chiêm ngưỡng những thắng
cảnh và đặc sản của biển đảo Hòn Khoai, thì như vậy Hòn Khoai là điểm tựa cho
nghành du lịch nội địa của Minh Hải phát triển không ngờ. Hòn Khoai nơi có bến
cảng yên tĩnh, có sân bay thanh lịch, có cảnh quan lạ mắt...Thật vô cùng thuận
lợi cho người làm du lịch nghĩ về các hình thái, lợi nhuận kinh tế khó có nơi
nào sánh kịp.
Đã có thể cho phép chúng ta
suy nghĩ về đảo Hòn Khoai thành làng Hòn Khoai, cái làng dịch vụ cho khách du lịch
để lấy lợi nhuận tái tạo Hòn Khoai thành một làng với nhiều ý nghĩa của nó về
kinh tế, văn hóa du lịch và an ninh quốc phòng như huyện đảo Phú Quốc làm thí
dụ.
Nếu Hòn Khoai trở thành một
đơn vị hành chính mới sẽ là cơ sở vững chắc cho việc bảo vệ thiên nhiên ở đây một
cách nghiêm ngặt được.Điều đó cũng sẽ đồng nghĩa với việc phát huy những giá trị
về khoa học, văn hóa, kinh tế và vai trò an ninh quốc phòng của đảo Hòn Khoai.
Cà Mau - Rừng U Minh
Rừng U Minh
18/06/2007, 08h11
Vị trí:
Rừng U Minh nằm sát vịnh Thái Lan, thuộc hai tỉnh Kiên Giang và Cà Mau.
Đặc
điểm: Rừng U Minh là kiểu rừng rất đặc thù, được xếp hạng độc đáo và quí hiếm
trên thế giới.
Rừng
U Minh gồm phần trên là U Minh Thượng, phần dưới là U Minh Hạ. Giữa U Minh Thượng
và U Minh Hạ là sông Trẹm và sông Cái Tàu. Nơi đây thiên nhiên hùng vĩ và hoang
sơ.
Rừng U Minh được coi là nơi có giá trị sinh khối cao nhất so với các kiểu rừng
với khoảng 250 loài thực vật, chủ yếu là cây tràm mọc khắp nơi, hơn 180 loài
chim, hơn 20 loài bò sát... Sinh cảnh của rừng U Minh còn là hiện trường và hệ
quả của tiến trình diễn biến động thái của những hoạt động kiến tạo địa chất.
Cinet
Cần Thơ - Bến Ninh Kiều
Bến Ninh Kiều
18/06/2007, 08h16
Vị trí:
Bến Ninh Kiều nằm ở phía hữu ngạn sông Hậu, đường Hai Bà Trưng, phường Tân An,
Quận Ninh Kiều, Tp. Cần Thơ.
Đặc điểm: Tên “Ninh Kiều” là kỷ niệm một chiến thắng của
nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi chỉ huy.
Trên
bến sông suốt ngày tấp nập tàu, thuyền xuôi ngược chở đầy những sản vật vùng Đồng
bằng sông Cửu Long. Bên bến Ninh Kiều là cảng Cần Thơ tàu thuyền tấp nập ra,
vào. Gần bến Ninh Kiều có chợ Cần Thơ - một trung tâm buôn bán lớn ở miền Tây
Nam Bộ. Nơi đây, hấp dẫn khách du lịch là nhà hàng nổi trên sông, bạn có thể vừa
thưởng thức các món ăn đặc sản, vừa ngắm cảnh sông nước.
Cinet
Cao Bằng - Thác Bản Giốc
Thác Bản Giốc
18/06/2007, 08h20
|
|
Vị trí: Thác Bản Giốc
thuộc địa phận xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Đặc điểm: Bản Giốc là một thác nước cao hùng vĩ và đẹp
nhất của Việt
Ngay
từ xa du khách đã nghe thấy tiếng thác nước réo ào ào. Từ độ cao trên 30m những
khối nước lớn đổ xuống qua nhiều bậc đá vôi. Giữa thác có một mô đá rộng phủ đầy
cây đã xẻ dòng sông thành 3 luồng nước như ba dải lụa trắng. Ngày đêm thác nước
cuồn cuộn đổ xuống những tảng đá phẳng làm tung lên vô vàn hạt bụi trắng toả mờ
cả một vùng rộng lớn. Vào những ngày nắng, làn hơi nước còn tạo thành cầu vồng
lung linh huyền ảo.
Dưới
chân thác Bản Giốc là mặt sông rộng, phẳng như gương. Hai bên bờ là những thảm
cỏ, vạt rừng xanh ngắt, lác đác điểm những chùm hoa phong lan, những đàn trâu,
bò ung dung gặm cỏ làm cho cảnh sắc càng thêm sinh động. Ðộng Ngườm Ngao ở ngay
bên cạnh thác, dài khoảng 3km được đánh giá là một trong những hang động đẹp của
Việt
Thác
Bản Giốc đã đi vào nghệ thuật tạo hình với những tác phẩm hội hoạ và nhiếp ảnh
đặc sắc. Cùng với núi, sông và các hang động kỳ thú ở xung quanh, thác Bản Giốc
không chỉ là một điểm du lịch hấp dẫn mà còn là một nguồn thủy điện lớn trong
tương lai.
Cinet
Côn Đảo
Bà Rịa - Vũng Tàu -
Côn Đảo
29/11/2007, 16h02
Vị trí: Côn Đảo - huyện
Côn Đảo, thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cách Tp. Vũng Tàu 180km, cách Tp. Hồ Chí
Minh 230km.
Đặc điểm:
Côn Ðảo là một quần đảo gồm 14 đảo lớn, nhỏ, có địa thế hùng vĩ, có tài nguyên
thiên nhiên phong phú, có nhiều phong cảnh và bãi biển đẹp cùng với di tích nhà
tù nổi tiếng.
Du
khách có thể đi bằng máy bay trực thăng hoặc bằng tàu biển để ra Côn Ðảo.
Từ
giữa thế kỷ 19 đến năm 1975, Côn Ðảo bị biến thành một nhà tù khổng lồ, giam giữ
hàng trăm nghìn người yêu nước Việt
Chúng
ta đến thăm Côn Ðảo, không chỉ đến thăm chứng tích "địa ngục trần
gian" của thực dân đế quốc mà còn là đến với những hòn đảo đẹp luôn rực rỡ
sắc biển, màu trời, những hòn đảo xanh tươi của rừng núi, của lúa, của tiêu, của
dừa và của các loài thú quý hiếm...
Những
địa danh trên Côn Ðảo gắn liền với tài nguyên thiên nhiên phong phú của nơi
đây. Ðảo lớn nhất là Côn Sơn với trung tâm đảo là Côn Lôn. Hòn Cau cách Côn Lôn
8km, rộng 1,8 km² là nơi có nhiều cau rừng quả to gần như quả trứng gà, hạt đỏ
như son. Hòn Tre Lớn, Hòn Tre Nhỏ có rừng tre dầy, thân trắng và lớn như thân
cây vầu, cây bương. Hòn Trai có nhiều trai ngọc quý. Hòn Trứng là nơi cư ngụ của
nhiều loài chim biển. Hòn Bà cách Côn Lôn vài trăm mét có đỉnh núi cao 321m,
trên có tảng đá to hình một người phụ nữ. Hòn Bảy Cạnh cách Côn Lôn 7km có ngọn
Hải Đăng xây năm 1884, tầu thuyền trên biển ở xa trên 70km còn nhìn thấy.
Nằm trong vùng khí hậu á xích đạo -
hải dương nóng ẩm, nhiều nắng gió, Côn Ðảo có hệ sinh thái hết sức phong phú và
đa dạng. Rừng Côn Ðảo xanh tốt um tùm với nhiều loại cây gỗ quý như bời lời,
lát hoa, sao đen, cẩm thi, thiên niên kiện, săng đào, dầu lá bóng... Ðộng vật ở
Côn Ðảo cũng có nhiều loài như chồn, sóc, kỳ đà, khỉ, hươu, nai, gà rừng..., đặc
biệt có sóc mun toàn thân đen tuyền không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta.
Ở đây có các loài chim quý hiếm như: chim điêu mặt xanh, én biển...
Vùng
biển Côn Ðảo có nhiều loài hải sản quý, có giá trị kinh tế cao như tôm hùm, cá
hàng, cá gióng, cá mập, cá heo, cá nhám, hải sâm, đồi mồi, vích…
Cùng
với việc khai thác thế mạnh về tài nguyên rừng, biển của Côn Ðảo, người dân nơi
đây đang phát triển việc trồng và chế biến những nông sản có giá trị hàng hoá
cao như hồ tiêu, dừa, cây thuốc... Và cũng chính những mặt hàng có giá trị cao
về nông, lâm, ngư nghiệp của Côn Ðảo đã góp phần làm nên sự nổi tiếng của vùng
đảo giầu đẹp này.
Côn
Ðảo cũng đang phát huy thế mạnh du lịch của mình. Trên đảo Côn Sơn có sân bay Cỏ
Ống là cầu nối quần đảo với đất liền, rất thích hợp cho sự đưa đón khách du lịch.
Thị trấn có rất nhiều cây bàng nên vào những ngày nắng nóng vẫn rợp bóng xanh
mát. Các bãi tắm ở Côn Ðảo còn nhiều nét hoang sơ với môi trường trong lành,
trong đó có những bãi rất đẹp như Hàng Dương, Phi Yến, Ðầm Trầu... bằng phẳng,
sạch sẽ, nước trong xanh, có thể nhìn rõ đáy cát.
Không
thể không nhắc đến một sự kiện lịch sử thú vị là năm 1284 nhà thám hiểm Marco
Polo đã ghé qua Côn Ðảo.
Côn
Ðảo là địa danh du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Đà Nẵng - Bà Nà
Bà Nà - xứ sở trong
mây
|
Lần đầu đặt chân tới Bà Nà, du khách sẽ ngỡ ngàng vì
Việt
Cách
trung tâm TP Đà Nẵng 40km về phía Tây, khu du lịch sinh thái Bà Nà luôn hấp dẫn
du khách bởi cảnh quan thiên nhiên kỳ thú và khí hậu luôn trong khoảng 17- 20 độ
C.
Đường
lên Bà Nà (nằm ở độ cao 1.482m) nhiều đèo dốc và không ít cua gấp khúc. Nhưng
chính những khúc ngoặt ẩn hiện trong xứ mây đó lại khiến cho du khách trào dâng
cảm xúc thú vị. Bức tranh sơn cước trải dài theo tầm mắt du khách với điệp
trùng rừng cây, sông, suối, thác nước... xen lẫn những âm thanh rì rào của gió,
tiếng róc rách nước chảy, tiếng đục đá lóc cóc.
Khu
nghỉ mát này được người Pháp phát hiện từ cuối thế kỷ XIX và họ đã xây dựng ở
đây nhiều biệt thự lớn nhỏ, sân thể thao và hàng loạt nhà hàng. Sở dĩ có tên là
Bà Nà vì thửa trước nơi đây cây chuối mọc đầy dẫy và theo tiếng Pháp chuối là
chữ “Banana”. Trong gần một thế kỷ qua, chiến tranh và thời gian đã khiến nơi
đây trở nên hoang phế dần dần. Nhưng từ cuối thế kỷ XX, Bà Nà đã thức dậy với
những nỗ lực của chính quyền và nhân dân địa phương. Khu thắng cảnh này đang được
nâng cấp, mở rộng. Trước đây, nếu muốn lên đỉnh Bà Nà, từ bãi đỗ xe cuối cùng,
bạn phải leo tiếp 282 bậc đá. Còn bây giờ, nếu muốn "bay" giữa
không trung từ đồi Vọng Nguyệt lên đỉnh, bạn có thể đi theo đường cáp treo.
Đến
du ngoạn nơi này, du khách sẽ được biết thêm nhiều địa danh như Bà Nà - Núi
Chúa, đồi Vọng Nguyệt, suối Nai, suối Mơ, suối Đá, động Tranh, miếu Bà. Từ đỉnh
Bà Nà, du khách có thể phóng tầm mắt ngắm nhìn một vùng không gian rộng lớn từ
TP Đà Nẵng đến bán đảo Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, đèo Hải Vân...
Thật
hoang sơ và hùng vĩ! Đến đây du khách sẽ quên đi thế giới hiện tại của mình vì
mải mê ngắm những khung cảnh lạ lùng, trong một ngày dường
như được chia thành 4 mùa rõ rệt. Buổi sáng mùa xuân, khí hậu mát lạnh vì sương núi. Buổi trưa được hưởng những
ánh nắng của mùa hè nhưng trong
không khí se lạnh thật thú vị. Buổi chiều là khoảnh khắc của mùa thu ngắn ngủi để rồi mùa đông ập đến vào khoảng chập tối
thật lãng mạn bên ánh lửa bập bùng của những lễ hội rượu cần các dân tộc. Phía
xa, sáng một vùng đô thị lớn của miền Trung với lung linh huyền ảo ánh điện, thật
ấn tượng. Nếu ở Bà Nà với người thân vào những đêm trăng thì bạn sẽ có những
khoảnh khắc êm dịu, trữ tình hơn rất nhiều.
Đến
Bà Nà không ai có thể ngủ sớm hay dậy muộn, vì nơi đây là nơi rất lý tưởng để du
khách ngắm cảnh bình minh hay hoàng hôn. Dưới chân núi, bình minh thật
ngoạn mục khi cuối chân trời có tới 6 sắc màu khác nhau. Đang nhìn phong cảnh
dưới chân mình thì mây lại kéo đến, trong tích tắc che hết mọi cảnh vật chung
quanh khiến mình lại càng thêm có cảm giác vừa sợ sệt vừa thích thú vì lần đều
tiên được đứng trên mây.
Không
ít người đã ví Bà Nà như Đà Lạt, như Sa Pa của miền Trung, nhưng từ Bà Nà có thể
chuyển tiếp hành trình du lịch từ núi xuống biển với khoảng cách khá gần, chỉ
khoảng 40km. Tại đó, có những bãi tắm tuyệt đẹp như Xuân Thiều, Mỹ Khê, Bắc Mỹ
An. Thực không có gì thú vị hơn bởi trong một khoảng cách gần, du khách có thể
thưởng ngoạn phong cảnh thiên nhiên và khí hậu của hai vùng đất.
(Cinet)
Đà Nẵng - Sơn Trà
Du ngoạn với chân sóng
Sơn Trà
|
Nếu đến Đà Nẵng, núi Ngũ Hành Sơn, bãi Cô Tiên hay Bà Nà làm cho du khách thấy không còn gì nữa để khám phá thì nên đi khoảng 20km về phía Đông, đến chân núi Sơn Trà là một dải biển đẹp. Phong cảnh ở đây có thể làm cho du khách ngạc nhiên vì vẻ hoang sơ.
Con
đường chạy ven chân núi đưa du khách vào một cuộc khám phá cảnh quan đẹp mắt.
Càng ra xa, nhìn về thành phố Đà Nẵng sẽ thấy cửa sông Hàn tấp nập thuyền bè.
Trong lịch sử các hải cảng miền Trung, có thể chứng kiến sự dịch chuyển vị trí
thế này: khoảng vào đầu thế kỷ XIX khi bến Lâm Âp phố (Hội An) cạn nước, thì Đà
Nẵng trở thành một hải cảng quốc tế cho tàu thuyền đi lại giao thương. Đứng từ
một ngọn đèo nào đó trên đường ra bãi Bụt - Sơn Trà để có thể nhìn vào khu cảng
sầm uất tàu bè. Nhất là trong những buổi chiều, cái vẻ đẹp phố phường bến cảng
hiện lên như bức tranh không hoành tráng nhưng đầy thơ mộng.
|
Con
đường sẽ chạy băng qua một bên là hồ xanh, một bên là biển để theo những khúc
quanh ngoặt, dẫn lên một ngọn đồi có thể đứng phóng tầm mắt nhìn toàn cảnh bãi
Ông và một vài làng chài nhỏ bé lân cận. Trước đó, du khách sẽ qua bãi đá. Nơi
đây có khoảng vài ba cánh vó giăng giữa biển, ghé lên bãi đá để ghi lại những tấm
ảnh đẹp trong ráng chiều, ngửi thấy mùi tôm cá như một đặc trưng xứ sở. Một ngư
dân nói: “Ở đây gì chứ tôm cá thì ngày bữa chi”.
Bãi
Bụt được coi là vùng chân núi chân sóng của bán đảo Sơn Trà. Hơn 2 năm nay, du
khách nội địa và nước ngoài đã bắt đầu đặt chân đến bãi Bụt thưởng ngoạn cảnh
quan kỳ thú. Ở đây, những bãi cát không dài, nhưng có những bãi đá được tạo nên
từ sự ngẫu hứng của tạo hoá bên cạnh những cây dừa lẻ loi hướng ra biển, những
rặng thuỳ dương xanh. Hiện nay, khu du lịch bãi Bụt đang thành hình. Đây là
vùng hứa hẹn hấp dẫn bởi những tiện nghi dịch vụ mang lại, song người ta cũng
lo sợ vẻ hoang dã kia sớm bị đánh mất.
Tiếp
bãi Bụt là bãi Chẹ. Đây là một bãi hẹp, nối sang eo biển ghềnh Rạng. Vùng này
đã có vài nhà hàng có dịch vụ picnic, tắm biển, nghỉ dưỡng, hải sản tươi sống…
Đường đi xuống bãi biển khá dốc và phải băng qua những đồi dây leo có lá xanh
um, hình trái tim mọc um tùm.
|
Nhưng
điều làm du khách háo hức nhất trong chuyến đi này là đến ghềnh Bàng để tìm chỗ
“lặn bụi” và với tham vọng được chén những món hải sản tươi sống do mình “câu
được” từ trong khoang thuyền của ngư dân. Ghềnh Bàng được ví là nơi thần tiên.
Cứ lặn thử sẽ thấy dưới đáy biển kia là một thuỷ cung với san hô, rong biển nhiều
màu, những loài cá nàng đào, cá thia… mang trên mình sự long lanh của thứ ánh
sáng trong lòng biển. Nhưng cũng khuyến cáo rằng đây là vùng có nhiều hàu, hà
bám trong các vách đá, phải rất cẩn thận khi “lặn bụi” vì những cái dao sắc kia
sẽ liếm vào chân tay bất cứ lúc nào.
Từ
ghềnh Bàng này, có nhiều chỗ ngồi câu cá lý tưởng. Không có được cơ hội lặn biển,
nhưng được ngồi câu cá ở đây đã làm cho du khách thấy hài lòng. Hơn nữa, ngồi
trên vách đá nhô ra biển, buông câu vừa hóng gió, hóng sóng, vừa thú vị và hồi
hộp khi sợi cước căng lên theo đường cá chạy. Tiếp đó, món cá nướng và tiếng
sóng lâng lâng sẽ làm du khách nhớ ghềnh Bàng da diết. Ở đây còn có những món
ngon đặc trưng như nộm sứa, mực hấp, cá hấp tươi ngon… vừa từ những thuyền bè
làng chài ở ghềnh Rạng mang lên như những quà tặng biển khơi dưới chân sóng Sơn
Trà.
(Cinet)
Đà Nẵng - Bãi biển Bắc Mỹ An
Bãi biển Bắc Mỹ An
18/06/2007, 08h24
Vị trí:
Bãi biển Bắc Mỹ An nằm trong địa phận phường Bắc Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố khoảng 7km về phía đông nam.
Đặc điểm:
Với chiều dài bờ biển gần 4km, bãi cát trắng mịn, nước biển trong xanh và khu
nghỉ mát Furama Resort đạt tiêu chuẩn 5 sao, Bắc Mỹ An được du khách biết đến
như là một nơi nghỉ dưỡng biển ngang tầm quốc tế.
Trước
năm 1975, Bắc Mỹ An chỉ là bãi tắm tự nhiên. Sau ngày thành phố giải phóng, nhà
nước xây dựng ở đây một nhà nghỉ và một viện điều dưỡng để phục vụ nhu cầu an
dưỡng của cán bộ công nhân viên chức của tỉnh Quảng
Cinet
Đà Nẵng - Đèo Hải Vân
Đèo Hải Vân
18/06/2007, 08h30
|
|
|
Vị trí: Đèo Hải Vân nằm
trải dài theo sườn núi Hải Vân, giữa tỉnh Thừa Thiên – Huế và thành phố Đà Nẵng.
Đặc điểm:
Đây là đèo cao nhất (khoảng 500m so với mực nước biển), đầy hiểm trở và cũng là
đỉnh núi cuối cùng của một mạch Trường Sơn đâm ngang ra biển.
Đèo
Hải Vân chênh vênh một bên là núi rừng, một bên là biển cả, đỉnh đèo mây phủ
quanh năm nên còn được gọi là “đèo Mây”. Trong Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn từng
nhận xét: Hải Vân dưới sát bờ biển, trên chọc từng mây là giới hạn của hai xứ
Thuận Hóa và Quảng
Trên
con đường xuyên Việt qua dải đất miền Trung đầy nắng gió, đèo Hải Vân lâu nay
đã trở thành nơi thưởng ngoạn lý tưởng của du khách vào
Những
gì thiên nhiên ban tặng, qua thời gian và qua bàn tay con người, sẽ trở thành
những giá trị nhân văn. Đến Hải Vân là đến với nơi giao thoa giữa hai vùng đất,
là thỏa mãn tâm lý chiếm lĩnh đỉnh cao, hòa mình trong âm vọng sử thi của bao dấu
chân người Việt xưa đi mở cõi, bồi hồi thương nhớ quá khứ thẳm sâu của khúc ruột
miền Trung.
Cinet
Đăk Lăk - Vườn Quốc gia Yok Đôn
Vườn quốc gia Yok Đôn
18/06/2007, 08h35
Vị trí: Vườn quốc gia
Yok Đôn thuộc huyện Buôn Đôn và huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk, cách thành phố Buôn
Ma Thuột 40km về phía tây bắc.
Đặc điểm: Vườn quốc gia Yok Đôn là một trong những khu bảo
tồn thiên nhiên lớn nhất nước ta với tổng diện tích 115.545ha.
Vườn
quốc gia Yok Đôn là nơi ẩn chứa bao điều kỳ thú, hấp dẫn du khách và các nhà
khoa học bởi sự phong phú và độc đáo của thiên nhiên hoang sơ. Những cánh rừng
đại ngàn thuộc hệ sinh thái rừng khộp mang tính đặc trưng của rừng nhiệt đới
Đông Nam Á, đan xen trong đó là các cánh rừng ẩm xanh tươi và rừng bụi với nhiều
loại cây gỗ quý như giáng hương, cà te, cẩm lai, trắc, gỗ đỏ, sao lá tím…
Địa
hình nơi đây tương đối bằng phẳng, trong đó nổi lên các ngọn núi Yok Đôn và
Reheng. Rừng nguyên sinh chiếm trên 90% diện tích toàn vườn là môi trường sống
lý tưởng cho các loài động thực vật. Theo khảo sát của các nhà khoa học, Yok
Đôn hiện có 67 loài thú, 196 loài chim, 46 loài bò sát, 15 loài lưỡng cư và khoảng
100 loài côn trùng sinh sống. Nguồn động vật hoang dã không những phong phú và
đa dạng mà còn rất đặc trưng cho hệ động vật vùng Đông Nam Á. Trong số 56 loài
động vật quý hiếm của khu vực Đông Dương thì Yok Đôn có đến 36 loài và 17 loài
được ghi trong sách đỏ thế giới như voi, trâu rừng, bò sừng xoắn, hươu sao, sơn
dương, gà lôi, công, sáo, phượng hoàng… Đây còn là khu vực duy nhất ở Việt Nam
có nhiều động vật quý tập trung với số lượng lớn như bò rừng, báo, nai cà tông,
kỳ đà nước…Hệ thực vật ở đây rất phong phú và đa dạng với 464 loài, trong đó
nhiều loài chỉ có ở khu vực Tây Nguyên. Nơi đây cũng tập hợp nhiều loài hoa quý
hiếm, chỉ riêng hoa phong lan đã có trên 23 loài với đủ màu sắc tuyệt đẹp. Yok
Đôn là khu vực duy nhất ở Việt
|
|
Trong những năm qua, các nhà khoa học đã tiến
hành nhiều đề tài nghiên cứu về đa dạng sinh học của vườn quốc gia, nghiên cứu
đặc điểm sinh thái các loài động vật hoang dã, nghiên cứu chuyên về các loài động
vật hoang dã, nghiên cứu chuyên về từng loài động thực vật như voi, thú móng guốc,
hổ báo Đông Dương, các loài chim… Bên cạnh công tác bảo vệ, duy trì và phát triển
hệ sinh thái vườn quốc gia Yok Đôn, một trong những nhiệm vụ của Vườn phát triển
các loại hình du lịch. Thời gian qua, Ban Quản lý vườn quốc gia đã tích cực phối
hợp với ngành Du lịch Đắk Lắc tham gia phát triển các loại hình du lịch sinh
thái, nghiên cứu, tham quan thám hiểm rừng nguyên sinh.
Ngoài ra, vườn quốc gia Yok Đôn
còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc Tây Nguyên như: Êđê,
M’Nông, Lào… Buôn Đôn hiện vẫn bảo tồn được khá nhiều kiến trúc nhà sàn truyền
thống với những hình chạm khắc đẹp và công phu, thể hiện bàn tay khéo léo và óc
sáng tạo tài tình của cư dân nơi đây. Buôn Đôn còn là vùng đất nổi tiếng với
nghề săn bắt và thuần dưỡng voi. Khách đến đây sẽ được tận mắt xem các dụng cụ
dùng để săn bắt voi và có thể cưỡi voi đi dạo giữa những cánh rừng đại ngàn hoặc
cùng voi vượt qua dòng sông Sêrêpôk lại chảy từ đông sang tây trong khi hầu hết
các con sông thường chảy từ tây sang đông rồi đổ ra biển. Bắt nguồn từ vùng núi
Cinet
Đăk Lăk - Thác Dray Nur
Thác Dray Nur
18/06/2007, 09h24
Vị trí:
Thác Dray Nur là thác trung nguồn nằm trong hệ thống ba thác: Gia Long - Dray
Nur - Dray Sáp của sông Sêrêpôk, tỉnh Đắk Nông.
Đặc điểm: Thác Dray Nur là ngọn thác lớn nhất Tây
Nguyên.
Cách thác Gia Long chừng 3km, du khách được
chiêm ngưỡng thác Dray Nur hùng vĩ không kém.
Thác Dray Nur không rộng như thác Dray Sáp
nhưng thế thác cao, dòng nước cũng mạnh hơn, nên khi đổ xuống tạo thành những
cuộn sóng dâng trào.
Cinet
Đăk Lăk - Thác Khói
Thác khói Draysap
Từ
thành phố Buôn Ma Thuột theo quốc lộ 14 đi về hướng Đông - Nam đến km 17 rẽ
trái 12 km nữa du khách sẽ gặp một thắng cảnh nổi tiếng, đó là thác Draysap.
Thác nằm trên dòng sông Sê-rê-pốc thuộc xã
Thác Draysap nằm
giữa một cánh rừng nguyên sinh xa vùng dân cư nên không khí trong lành, với một
vẻ đẹp tự nhiên quyến rũ. Ngọn thác hùng vĩ đổ ầm ầm, tung bọt trắng xóa, rồi bốc
lên thành những làn hơi nước mong manh gặp nắng mặt trời tạo thành cầu vồng bảy
sắc. Xa xa trên đỉnh thác, dòng nước phẳng lặng êm đềm trông tựa gương soi, du
khách sẽ có được những phút giây sảng khoái ngâm mình trong dòng Sê-rê-pốc mát
lạnh hoặc ngồi hàng giờ đọc sách, câu cá dưới làn "khói" mát dịu mơn
man (bên chân thác), bao nỗi vất vả, nhọc nhằn bon chen giữa đời thường như
tan biến vào làn khói hư vô mờ ảo... Sau bữa cơm trưa, thả bộ trong rừng du
khách sẽ được nghe tiếng hót của chim bồ chao, hay tiếng gõ tìm mồi của những
chú chim gõ kiến. Mùa xuân về, du khách còn bắt gặp những tán lá non mơn mởn
hay đỏ tươi, những cánh mai rừng màu vàng, những hoa bằng lăng nở trắng,
tím... Mặt trời xuống núi, cảnh thác rừng
Điện Biên - Đèo Pha Đin
Đèo Pha Đin
18/06/2007, 09h29
|
|
Vị trí: Đèo Pha Đin nằm
trên đường từ Hà Nội lên Điện Biên, ở ranh giới giữa tỉnh Sơn La và Điện Biên.
Đặc điểm:
Đèo dài 32km, địa thế rất hiểm trở, chênh vênh. Pha Ðin tiếng địa phương nghĩa
là Trời Ðất. Theo truyền thuyết địa phương, đây là nơi tiếp giáp giữa trời và đất.
Xưa
kia, vì có sự tranh chấp ranh giới giữa hai tỉnh Sơn La và Lai Châu (cũ), người
ta đã giải quyết bằng một cuộc đua ngựa. Từ hai phía đèo, cùng một lúc ngựa hai
bên phi hướng về nhau. Nơi gặp gỡ sẽ là ranh giới. Ngựa Lai Châu phi nhanh hơn,
nên phần đèo thuộc về Lai Châu (nay thuộc tỉnh Điện Biên) dài hơn phần đèo của
Với độ cao trên 1.000m khi lên dốc,
lúc xuống dốc, con đường ngoằn ngoèo, chênh vênh, một bên là vách núi dựng đứng,
một bên là vực sâu thăm thẳm, lại nhiều "cua" hiểm trở. Ðược vượt đèo
Pha Ðin là một cuộc du lịch đầy thú vị của du khách trước cảnh thiên nhiên hùng
vĩ.
Cinet
Đồng Nai - Danh thắng Đồng Nai
Danh thắng Đồng Nai
Sông
Đồng Nai
|
Là
trục chính của tuyến du lịch này, bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên (Lâm Đồng)
chảy ngang qua vùng đất Đồng Nai đã tạo nên nhiều phong cảnh đẹp. Những cánh đồng
lúa xanh ngút ngàn, những vườn cây ăn trái xum xuê, trĩu quả với nhiều đặc sản
trái cây của miền nhiệt đới: chôm chôm, sầu riêng, bưởi, xoài, măng cụt, dâu,
nhãn, mít tố nữ... Từ xa xưa, dọc theo con sông này đã hình thành nên các phố cổ
(Cù Lao Phố), làng cổ (Bến Gỗ), các làng nghề truyền thống: làng gốm Hóa An,
Tân Vạn, làng cá bè Tân Mai, các khu trọ trên sông : mua bán tấp nập, sinh hoạt
nhộn nhịp, trên bến dưới thuyền.
Cù
lao Phố
Thuộc
xã Hiệp Hòa, TP. Biên Hòa. Có địa thế là trung tâm của TP. Biên Hòa, cách TP. Hồ
Chí Minh khoảng 30 km, được bao quanh bởi sông Đồng Nai, là điểm sáng để xây dựng,
làm tour du lịch sinh thái, văn hóa. Cảnh trí nơi đây thật đẹp, thanh bình, êm ả
nhưng tràn đầy sức sống. Có nhiều di tích văn hóa lịch sử và lễ hội truyền thống.
Trong quy hoạch, định hướng phát triển Cù Lao Phố thành một cù lao xanh của
thành phố Biên Hòa. Ước tính đầu tư khoảng 300 tỷ đồng, nơi đây sẽ xây dựng một
trung tâm giải trí với quy mô lớn bao gồm các công viên nghỉ ngơi, vui chơi giải
trí, cảng du thuyền, các loại hình thể thao dưới nước, khu khách sạn, nhà hàng
cao cấp....
Làng
bưởi Tân Triều
|
Khu
du lịch sinh thái Làng bưởi Tân Triều thuộc xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu - Đồng
Nai. Diện tích khu du lịch là 5 ha, một điểm du lịch quan trọng trong tuyến. Đặc
điểm nổi bật của khu du lịch này là có nhiều vườn cây ăn trái miệt vườn Nam Bộ
đặc trưng, được bao quanh bởi một vùng sông nước bao la, mang đầy phù sa với
nhiều trái ngon, quả ngọt, đặc biệt là bưởi Tân Triều - Biên Hòa nổi tiếng khắp
nơi. Khu du lịch đang được quy hoạch và ước đầu tư khoảng 6 tỷ đồng.
Khu du lịch Bửu Long
|
Là
thắng cảnh quốc gia, có núi cao, có hồ rộng, phong cảnh thơ mộng, hữu tình. Được
xếp hạng di tích quốc gia năm 1990, thuộc địa bàn phường Bửu Long - TP Biên
Hòa, diện tích 84 ha. Trên núi có chùa Long Sơn, Bửu Phong cổ kính…
Định
hướng phát triển của Khu du lịch Bửu Long theo hướng du lịch văn hóa lịch sử,
tôn giáo, lễ hội truyền thống mang bản sắc văn hóa dân tộc tiêu biểu cho vùng đất
Đông Nam Bộ.
(Cinet)
Đồng Nai - Vườn Quốc gia Cát Tiên
Vườn quốc gia Cát Tiên
18/06/2007, 09h35
|
|
|
Vị trí: Cát Tiên là tên
gọi một vùng đất nằm gọn trong đoạn uốn khúc của sông Ðồng Nai, thuộc địa phận
của ba tỉnh Ðồng Nai, Bình Phước và Lâm Ðồng.
Đặc điểm: Tục truyền, nơi đây có nàng tiên thường xuống
hạ giới để vui đùa và tận hưởng dòng nước trong mát, nên được gọi là "Nam
Cát Tiên". Ðây là công trình khảo cổ có giá trị văn hoá, lịch sử và tín
ngưỡng lớn để có thể xác định được sự tồn tại, nguồn gốc của một vương quốc đã
bị lãng quên hơn 1.300 năm.
Vườn
Quốc gia Cát Tiên có tổng diện tích là 70.548ha, trong đó phần diện tích
thuộc Đồng Nai: 39.108ha; phần diện tích thuộc tỉnh Lâm Đồng: 26.969ha; phần diện
tích thuộc tỉnh Bình Phước: 4.469ha. Trụ sở Vườn Quốc gia Cát Tiên đặt tại huyện
Tân Phú, Ðồng Nai.
Khu
vườn có cảnh thiên nhiên đa dạng: vừa có đồi, vừa có bãi ven sông, vừa có các
trảng rộng lớn bằng phẳng, lại có các dòng chảy dốc. Vào mùa mưa các dòng suối
hiền lành trở thành các dòng thác, nước đổ trắng xoá trên các triền đá lớn. Nhiều
đoạn thác quanh co, lượn khúc tạo ra những bãi cát vàng rộng như các bãi tắm tự
nhiên.
Giữa
dòng sông rộng lớn nổi lên các hòn đảo chạy dài theo con nước. Trên đảo, cây cổ
thụ mọc xen với đám cỏ rộng có thể làm nơi cắm trại, đốt lửa đêm lý tưởng. Dọc
ven sông, theo lộ chính về phía tay trái là toàn bộ các kiểu rừng già, hỗn giao
của các loại cây gỗ quý: gõ, giáng hương, trắc, cẩm lai, gụ... Bên phải của con
đường rừng là thác trời, một ghềnh thác kỳ thú nhất của Cát Tiên. Tiếp tục băng
rừng, qua các thung lũng sâu sẽ đến Bàu Sấu, nơi chứa nước rộng nhất, nằm ở khu
trung tâm của Vườn Quốc gia Cát Tiên. Lòng bàu chứa nhiều loại cá, đặc biệt có
cả cá sấu nước ngọt. Ven bàu là nơi tập hợp của nhiều đàn chim lớn như công,
trĩ, gà lôi, sếu, giang, mòng, két, le le, cù đen...
Cát
Tiên không những có cảnh quan ngoạn mục, lại nằm trong khu vực chuyển tiếp của
khí hậu miền núi và đồng bằng nên Cát Tiên có khí hậu độc đáo. Địa hình có sông
suối bao bọc làm cho khu rừng già vừa được giữ nguyên vẹn, vừa trở thành nơi
qui tụ hầu hết các kiểu rừng đồng bằng Nam Bộ. Ðây là khu rừng nguyên sinh tiêu
biểu cho hệ sinh thái rừng ẩm nhiệt đới vùng thấp. Rừng có nhiều cây cổ thụ như
bằng lăng, gỗ đỏ. Hệ thực vật có hơn 1.362 loài thực vật bậc cao, hơn 440 loài
cây gỗ quý, hàng trăm loại cây dược liệu, 133 loài hoa phong lan...
Về
động vật có 62 loài thú, 121 loài chim, có những loài chim quý hiếm như trĩ
lông đỏ, cò quắm xanh, tê giác một sừng, voi...
Các
nhà khảo cổ học đã tìm thấy một đền thờ vật linh thuộc nền văn hoá Phù
Vườn Quốc gia Cát Tiên cách Tp. Hồ Chí Minh khoảng
150km theo quốc lộ 20. Cát Tiên là một điểm du lịch sinh thái và văn hoá hấp dẫn
của vùng miền Ðông Nam Bộ với nhiều loại hình du lịch như đi bộ, quan sát chim
thú, cắm trại, du thuyền, du lịch mạo hiểm...
Cinet
Gia Lai - Biển hồ Tơ Nưng
Biển hồ Tơ Nưng
18/06/2007, 09h41
|
|
Vị trí: Biển hồ Tơ Nưng
nằm ở xã Biển Hồ, Tp. Pleiku, tỉnh Gia Lai.
Đặc điểm: Biển hồ Tơ Nưng nguyên là một miệng núi lửa ngừng
hoạt động đã hàng trăm triệu năm. Hồ có hình bầu dục, diện tích 230ha.
Con
đường dẫn xuống hồ đẹp như tranh, hai bên là những rặng thông xanh ngắt. Cuối
con đường, leo lên các bậc tam cấp bằng đá, du khách sẽ đặt chân vào ngôi nhà lồng
rất thơ mộng được xây trên một đồi cao ăn ra lòng hồ. Nước hồ quanh năm đầy ắp,
xanh trong có thể nhìn rõ từng đàn cá bơi lội dưới nước. Hồ có độ sâu từ 20 đến
40m. Ðây là vựa cá, hàng năm cung cấp cho Pleiku hàng trăm tấn cá. Những chiếc
thuyền độc mộc lướt trên mặt hồ thật êm ả.
Phong
cảnh xung quanh hồ thật ngoạn mục, từ những cây cối và các loài hoa khoe sắc
ven hồ, ong bướm dập dìu tiếng hót của các loài chim lảnh lót mỗi buổi sớm mai.
Kế đó là những cánh rừng bạt ngàn, những ngọn đồi uốn lượn trập trùng... Những
chiếc thuyền độc mộc lướt trên mặt nước.
Giữa
mùa nắng nóng oi nồng mà ở đây rất dễ chịu: không khí trong lành và mát rượi. Đứng
trước hồ nước mênh mông không khỏi nhớ đến câu thơ “Ngọn gió nóng qua sông
thành ngọn gió mát”. Quả thực, biển hồ đã hấp thụ những cơn gió nóng nực để đem
đến cho vùng đất cao nguyên bao la những cơn gió mát lành. Đây không chỉ là nguồn
cung cấp nước sinh hoạt, nước cho cây trồng và vật nuôi cho một vùng rộng lớn
mà còn cung cấp cho dân trong vùng hàng trăm tấn cá, tôm…mỗi năm. Nguồn lợi tự
nhiên mà biển hồ mang lại vô cùng to lớn và quan trọng, nhất là đối với vùng
cao nguyên ở độ cao gần ngàn mét so với mặt biển và hiếm nước. biển hồ với nhiều
góc độ nổi lên như một viên ngọc bích giữa mênh mông đất đỏ Tây Nguyên.
Biển
hồ gần quốc lộ 14 và quốc lộ 19 nên rất thuận tiện cho khách đến tham quan. Đứng
bên hồ, du khách có thể phóng tầm mắt để nhìn bao quát cả một vùng: đây là những
quả đồi đất đỏ badan, những đồi chè, những đồi cà phê trĩu quả. Kia là thành phố
Pleiku - phố núi cao, phố núi đầy sương. Xa xa là những cánh rừng bạt ngàn, những
ngọn đồi uốn lượn trập trùng. Du khách còn gặp ở đây những ngôi nhà rông cao
vút.
Trong
vòng bán kính 6km về hướng nam là núi Hàm Rồng. Hàm Rồng là dương, dương từ khí
núi, hiên ngang như tấm bình phong chắn gió. Ngược lại, biển hồ cũng là miệng một
núi lửa nhưng khác là âm sâu xuống lòng đất. Các nhà khảo cổ học đã thám sát,
thăm dò và khai mở trang sử từ lòng đất này cho chúng ta biểt về văn hóa biển hồ
- nền văn hóa đặc sắc thời tiền sử…Biển
hồ Tơ Nưng được ví như hạt ngọc của Pleiku, của cả Tây Nguyên và là một điểm du
lịch quan trọng của tỉnh.
Cinet
Gia Lai - Nhà mồ Tây Nguyên
Nhà mồ Tây Nguyên
18/06/2007, 14h03
|
|
Vị trí: Nhà mồ Tây
Nguyên có ở hầu hết các tỉnh Tây Nguyên.
Đặc điểm:
Nhà mồ Tây Nguyên được xây cất theo phong tục tang lễ ở vùng Tây Nguyên, lúc đầu
là chòi nhỏ sơ sài, sau đó một hoặc vài ba năm thân nhân gia đình người chết dựng
lại nhà mồ mới khang trang, trang trí nhiều tượng gỗ.
Theo
phong tục tang lễ của một số tộc người ở vùng Tây Nguyên, sau khi chôn người chết,
người ta làm một chòi nhỏ sơ sài trên nấm mộ để che mưa che nắng cho người
chết. Trong chòi thường đặt một số đồ dùng của người đã khuất.
Sau
đó một hoặc vài ba năm, thân nhân gia đình người chết phá nhà mồ cũ, dựng nhà mồ
mới khang trang hơn, kiên cố hơn, trang trí tượng gỗ, có hàng rào xung quanh
nhà mồ.
Tục
phá chòi, dựng nhà mồ mới của một số tộc người ở Tây Nguyên thường được tổ chức
vào mùa xuân (mùa khô) và được coi như một lễ hội lớn (lễ bỏ mả) của dân bản.
Người ta đưa đến nghĩa địa rượu, thịt, cá, các vật cúng tế. Thân nhân người quá
cố và dân bản cùng vui mừng, ăn uống, nhảy múa trong một hay nhiều ngày bên nhà
mồ để chia biệt vĩnh viễn người quá cố. Tục bỏ nhà mồ theo quan niệm sau sự kiện này thì người
sống hết trách nhiệm trông nom, thờ cúng cho người quá cố và được giải thoát mọi
giàng buộc, nếu còn trẻ có thể lấy vợ (hoặc chồng) khác; còn người quá cố sẽ được
đầu thai sang kiếp khác…
Cinet
Hà Nội - Cổ Loa
Đến với Cổ Loa thành
Cổ
Loa được biết đến không chỉ là cái tên một thành trì quân sự nổi tiếng của nước
Âu Lạc thời An Dương Vương mà còn là trụ sở của huyện Phong Khê thời thuộc Hán,
là căn cứ quân sự thời Hậu Lý Nam Đế vào năm 692. Đó cũng là kinh đô đầu tiên của
Nhà nước phong kiến Việt
Khu
di tích Cổ Loa nằm trên địa phận 3 xã Cổ Loa, Dục Tú và Việt Hùng thuộc huyện Đông
Anh (Hà Nội), cách trung tâm Thủ đô Hà Nội khoảng 17km về phía Bắc. Theo các
tài liệu khảo cổ học thì xa xưa nơi đây là rừng rậm, do biến đổi của thiên
nhiên nên tất cả đã chìm vào lòng đất, hiện chỉ còn dấu tích những dải than bùn
lớn, những cây cổ thụ... kéo dài qua nhiều địa phương từ Đài Bi qua Cầu Cả, Đại
Đà, Hội Phụ đến Lỗi Khê...
|
Giếng Ngọc trước cửa đền An Dương Vương ở Cổ Loa. |
Hơn hai nghìn năm trước, An Dương
Vương Thục Phán đã tiến về xuôi để lập kinh đô mới cho nước Âu Lạc tại Cổ Loa.
Ông đã cho đào đắp thành lũy kiên cố, đào hào sâu phòng thủ chắc chắn, luyện
quân tinh nhuệ, chế tạo vũ khí để bảo vệ đất nước trước sự đe dọa của quân xâm
lược nhà Triệu ở phương Bắc. Trải qua sự biến thiên của thời gian, Cổ Loa từng
có những tên gọi khác nhau như Khả Lũ thành, Côn Lôn thành, Việt Vương thành và
Tư Long thành...
Cổ
Loa nằm trên một vùng đất cao, thoải dần từ Bắc xuống
Cũng
giống như nhiều điểm di tích khác, ở Cổ Loa còn có sự đan xen của làng xóm, đồng
ruộng, khu dân cư, khu hành chính... Khu dân cư ở Cổ Loa gồm trại, xóm, làng,
ruộng, ao chuôm, ngòi lạch. Khu hành chính có bệnh viện, trụ sở cơ quan hành
chính phục vụ, trường học, cửa hàng... Nơi đây có chợ Sa nổi tiếng cả vùng và
đã đi vào sử sách về dấu ấn văn minh thương nghiệp từ rất sớm. Đặc biệt, ngay từ
thời An Dương Vương, Cổ Loa đã có hệ thống giao thông khá hoàn chỉnh với đường
bộ và đường thủy, tạo điều kiện thuận lợi cho đời sống và sản xuất của nhân
dân.
Theo
truyền thuyết dân gian, Cổ Loa thành nguyên thủy của Thục Phán gồm có chín lớp
tường thành, bên ngoài là hào sâu bao bọc nhưng hiện nay chỉ còn lại ba vòng
thành đắp bằng đất theo hình xoáy trôn ốc, gần như lồng vào nhau ở thế cao dần
lên; chúng không hoàn toàn đồng tâm mà hơi lệch về phía Nam. Từ ngoài nhìn vào,
trước tiên có thể nhìn thấy dấu tích thành ngoại, tiếp đó là thành trung và
thành nội. Cả ba lớp thành được nối liền bằng một cửa lớn gọi là Loa Khẩu ở
phía Đông
Cổ
Loa thành thể hiện trình độ lao động sáng tạo của ông cha ta xưa kia đã làm nên
một công trình quân sự kiên cố bậc nhất đương thời. Các tài liệu ghi chép trong
đợt khai quật đào cắt một số đoạn thành năm 1970 cho biết: tường thành Cổ Loa
có hai lớp đất, lớp dưới chân thành gồm nhiều mảnh gốm lẫn với than, được kè bằng
đá hộc và đá cuội to làm cho chân thành rất chắc chắn. Cấu trúc chung với các
vòng thành là những hỏa hồi vọng gác cũng tương tự như vậy. Mỗi vòng thành có 4
hoặc 5 cửa mở ra các phía, nối với nhau bằng một con đường quanh co hai bên. Dưới
chân thành là hệ thống hào sâu, ngòi nước, ao hồ... chạy vòng quanh, lại được nối
liền với Hoàng Giang (xưa kia là một nhánh của sông Nhị, chảy qua 5 huyện rồi đổ
vào sông Cầu) làm nhiệm vụ phòng thủ rất hữu hiệu. Lũy đắp mé ngoài dựng đứng để
quân địch khó leo qua còn mé trong thoai thoải để quân ta có thể dễ dàng leo
lên đón đánh giặc. Phía ngoài ba vòng thành còn có nhiều ụ đất được đắp khá cao
với ý nghĩa là những công trình tiền vệ cho thành như Đống Chuông, Đống Dân, Ngự
Xạ Đài... An Dương Vương đã biết kết hợp các yếu tố tự nhiên một cách khéo léo,
tạo thành một căn cứ vừa thuận lợi cho phòng thủ, mai phục, vừa dễ dàng cho việc
vận động, tấn công theo lối du kích. Đây cũng là chiến thuật độc đáo mà sau
này, cả trong thời hiện đại, quân và dân ta đã vận dụng sáng tạo đồng thời phát
triển thêm lên trong các cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Đây cũng là ví dụ
điển hình về việc kết hợp hai thứ quân: quân thủy và quân bộ hiệp đồng chiến đấu
trên một địa bàn.
Cổ
Loa thành còn là một công trình kiến trúc nghệ thuật và xây dựng đặc sắc mặc dù
được xây dựng với mục đích quân sự. Ở phía Bắc, ông cha ta đã lợi dụng các đồi
gò, ụ đống cao làm lũy phòng vệ, làm pháo đài tấn công giặc; còn ở phía Nam thì
dựa vào địa hình đồng bằng rộng lớn, lấy Hoàng Giang làm chiến hào tự nhiên án
ngữ, đào thêm nhiều đoạn sông để nối Hoàng Giang với sông Hồng, sông Cầu đến
sông Lục Đầu, tạo nên một hệ thống giao thông thuận tiện ra đến tận cửa biển và
Đầm Cả trở thành một quân cảng lớn đủ cho vài trăm thuyền bè neo đậu... Các di
tích kiến trúc nghệ thuật khác trong thành nội còn phải kể đến đền An Dương
Vương, đình Cổ Loa Ngự Triều Di Quy, am Mỵ Châu, miếu thần Kim Quy... Theo văn
bia Cổ Loa, đền thờ An Dương Vương được xây dựng năm 1687, trùng tu năm 1893.
Những di vật quý là tấm bia đá lớn bốn mặt hình khối vuông, ghi niên hiệu Hoàng
Định thứ 5 (1606). Bên trong đền có đôi ngựa chiến bằng gỗ làm vào năm 1716. Ở
hậu cung, trên bàn thờ có pho tượng vua Thục bằng đồng nặng 255 cân ta được đúc
vào năm 1807. Trước tam quan đền có đôi rồng đá vuốt râu, đặc trưng cho phong
cách nghệ thuật điêu khắc thời Hậu Lê (thế kỷ XVII-XIX). Dấu ấn của sự vận dụng
thuyết phong thủy rất rõ nét: ở mặt trước đền thờ có hương án, tạ thủy, tay
nghi, hai bên có đôi mắt rồng bố trí cân xứng, tạo thành thế đất Cổ Tử Long uy
nghi, bề thế. Nhìn toàn cảnh, bố cục kiến trúc và nghệ thuật xây dựng tòa
thành, đình giếng, đền, am, miếu... là một bức tranh hoàn chỉnh.
Đến
thăm Cổ Loa thành, du khách không thể bỏ qua việc tìm hiểu di tích khảo cổ học ở
cả một vùng rộng lớn xung quanh để hiểu thêm, tự hào thêm về lịch sử dân tộc, lịch
sử nước nhà. Dọc bờ Hoàng Giang, có rất nhiều di chỉ như Đồng Vông, Đồng Chiện ở
phía Nam; Vườn Đất, Vườn Trình ở phía Bắc... thuộc thời đại Đồ đồng, cách đây đến
4.000 năm. Sau đó, có những di chỉ vào thời đại giữa Đồ đồng (cách đây khoảng
trên 3.000 năm đến 3.500 năm) là Bãi Mèn, Cầu Vực, Tiên Hội, Đình Trang... và
những di chỉ vào đầu thời đại Đồ sắt (cách đây trên 2.000 năm đến 3.000 năm)
như Đình Tràng, Bãi Miễu, Đường Mây, xóm Nhồi, xóm Hương... Bên cạnh đó còn có
rất nhiều di vật cổ là đồ đất nung, đồ sắt, men, gốm... trong các ngôi mộ gạch
và khuôn giếng cổ ở Đồng Đô, Mả Cơ, Ao Má... có niên đại từ trước và sau Công
nguyên đến thế kỷ thứ X, nhiều di vật đã được giám định là sản phẩm của các thời
đại phong kiến Lý, Trần, Lê, Nguyễn... chứng tỏ sự tiếp nối liên tục của lịch sử
dân tộc.
Đến
thăm Cổ Loa thành, du khách sẽ cảm nhận được khung cảnh một vùng quê cổ tích với
bao huyền thoại, nghe lại thiên tình sử Mỵ Châu - Trọng Thủy đầy bi tráng... Lịch
sử hàng nghìn năm đã đi qua nhưng dấu ấn một thời đại hào hùng thuở An Dương
Vương nối nghiệp các Vua Hùng sẽ còn sáng mãi.
(Cinet)
Hà Nội - Hồ Hoàn Kiếm
Hồ Hoàn Kiếm
18/06/2007, 09h46
|
|
Vị trí: Thuộc quận Hoàn
Kiếm, thành phố Hà Nội.
Ðặc điểm:
Hồ Hoàn Kiếm được coi là hòn ngọc của Thủ đô, hay như du khách nước ngoài gọi
là "Lẵng hoa giữa lòng thành phố".
Theo
các nhà khoa học hồ là một đoạn sót lại của sông Hồng sau khi sông đã chuyển
dòng như hiện nay. Sự việc sông nước biến thiên ấy diễn ra cách đây vài nghìn
năm. Trước đây hồ có tên là Lục Thủy vì sắc nước bốn mùa xanh. Thế kỉ 15, hồ Lục
Thủy đổi tên là hồ Hoàn Kiếm. Cái tên Hoàn Kiếm gắn liền với câu chuyện trả
gươm cho rùa vàng của vua Lê Thái Tổ.
Hồ
Hoàn Kiếm không chỉ là một nơi hóng gió, dạo mát mà còn gắn liền với đời sống
người dân Thủ đô về nhiều phương diện. Đêm giao thừa, người người nô nức du
xuân quanh hồ. Xuân về, hồ là nơi gặp gỡ của thiện nam tín nữ đi lễ các đền
chùa lân cận. Các đôi uyên ương trong ngày cưới tìm đến bên hồ để chụp ảnh lưu
niệm. Hè đến, những buổi chiều oi bức, hồ là địa điểm hóng mát lý tưởng.
Ai
đã từng một lần ngắm hồ từ trên cao vào đầu hạ sẽ không khỏi thảng thốt trước bức
tranh đầy màu sắc và nên thơ của những cây bằng lăng tím rạng rỡ xen giữa những
phượng cháy đỏ rực, những cơm nguội chín vàng. Mùa thu, hồ Hoàn Kiếm không chỉ
là một thắng cảnh đẹp với những rặng liễu rủ bên bờ, những tàng cây ngả xuống
vòng tay ôm lấy mặt nước hồ biếc xanh màu ngọc lấp lánh nắng vàng mà còn là nơi
nhân dân thủ đô lui tới để xem pháo hoa nhân những ngày hội lớn của dân tộc như
19/8 và 2/9. Những
di tích lịch sử độc đáo như tháp Rùa, tượng vua Lý Thái Tổ, đền Ngọc Sơn, đài
Nghiên, tháp Bút, đền Bà Kiệu, chùa Bà Đá... và những công trình kiến trúc hiện
đại mới được xây dựng luôn đảm bảo kết hợp hài hòa với cảnh quan vốn có quanh hồ.
Hồ Hoàn Kiếm với đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc và tháp Rùa lung linh bóng nước là
hình ảnh của thủ đô Hà Nội trong mỗi trái tim người Việt Nam.
Cinet
Hà Nội - Hồ Tây
Hồ Tây
18/06/2007, 09h55
|
|
Vị trí: Thuộc quận Tây
Hồ, phía tây bắc trung tâm thành phố Hà Nội.
Ðặc điểm: Hồ Tây có diện tích rộng hơn 500ha với một bề
dày lịch sử mấy nghìn năm. Đường vòng quanh hồ dài tới 17km.
Ngành
địa lý lịch sử đã chứng minh rằng hồ Tây là một đoạn sông Hồng cũ còn rớt
lại sau khi sông đã đổi dòng... Có thể do sông hồ biến đổi như vậy mà đã xuất
hiện nhiều truyền thuyết về hồ và tên gọi của hồ. Ví như theo truyện "Hồ
Tinh" thì có tên là hồ (hoặc đầm) Xác Cáo, vì truyện kể là có một con cáo
chín đuôi ẩn nấp nơi đây làm hại dân. Long Quân mới dâng nước lên phá hang cáo,
hang sập thành ra hồ.Theo truyện "Khổng lồ đúc chuông" thì hồ lại có
tên là Trâu Vàng. Truyện kể rằng có ông khổng lồ có tài thu hết đồng đen của
phương bắc đem đúc thành chuông. Khi thỉnh chuông, tiếng vang sang bên phương bắc.
Vì đồng đen là mẹ vàng nên con trâu vàng phương Bắc nghe tiếng chuông liền vùng
đi tìm mẹ. Tới đây nó quần mãi đất, khiến sụt thành hồ. Theo thư tịch thì thế kỷ
11, hồ này đi vào lịch sử với tên là Dâm Đàm (Đầm mù sương), tới thế kỷ 15 thì
đã gọi là Tây Hồ. Hồ còn có tên là Lãng Bạc, trùng với tên nơi diễn ra những trận
đánh ác liệt giữa quân của Hai Bà Trưng và quân Hán ở vùng Tiên Sơn tỉnh Bắc
Ninh.
Hồ Tây từ lâu lắm đã là thắng cảnh. Thời Lý -
Trần, các vua chúa lập quanh hồ nhiều cung điện làm nơi nghỉ mát, giải trí, như
cung Thúy Hoa thời Lý, điện Hàm Nguyên thời Trần nay là khu chùa Trấn Quốc,
cung Từ Hoa thời Lý nay là khu chùa Kim Liên, điện Thuỵ Chương thời Lê nay là
khu trường Chu Văn An...
Những ngày sóng yên gió lặng, chơi
thuyền Hồ Tây là một thú tao nhã. Nếu làm một cuộc đi dạo quanh hồ thì đồng thời
cũng được thăm khá nhiều di tích và thắng cảnh. Làng Nghi Tàm, quê hương nhà
thơ "Bà huyện Thanh Quan" với chùa Kim Liên có kiến trúc độc đáo;
làng Nhật Tân nguồn hoa đào mỗi độ xuân về, tương truyền là nơi Lạc Thị đời Hồng
Bàng sinh ra một bọc trứng nở thành bảy con rồng. Rồi làng Xuân Tảo với đền Sóc
thờ Thánh Gióng, làng Trích Sài có chùa Thiên Niên thờ bà tổ nghề dệt lĩnh,
sang làng Kẻ Bưởi có nghề làm giấy cổ truyền và đền Đồng Cổ nơi bách quan hội
thề thời Lý, làng Thụy Khuê có chùa Bà Đanh nổi tiếng một thời... Và đặc sắc nhất
là đền Quán Thánh. Lại còn cả một số công trình nhà ở mới xây dựng bên hồ làm
quang cảnh thêm đa dạng.Cùng
với hồ Trúc Bạch, Hồ Tây làm giàu thêm chất thơ ở nội thành Hà Nội, đồng thời
cũng làm giàu cho Hà Nội về kinh tế, vì đó là những vựa cá đem lại nguồn thu lớn.
Cinet
Hà Nội - Hồ Trúc Bạch
Hà Nội - Hồ Trúc Bạch
Vị trí: Thuộc quận Ba
Đình, phía tây bắc trung tâm thành phố Hà Nội.
|
|
Đặc điểm: Hồ Trúc Bạch là một thắng cảnh của Hà Nội, nằm
kề hồ Tây, cách nhau con đường Thanh Niên rợp mát bóng cây, bốn mùa đều hấp dẫn
mọi người đến thưởng ngoạn, nghỉ ngơi.
Xưa
kia hồ Trúc Bạch, hồ Tây với cả hồ Cổ Ngựa (ở vào khoảng phố Hàng Than bây giờ,
đã bị lấp thành bằng địa từ khi Pháp mới chiếm Hà Nội) đều nối liền nhau. Đó
chính là một đoạn dòng cũ của sông Hồng. Về sau, người ta đắp ngăn thành ba hồ.
Sách
Long thành dật sự có ghi rõ rằng: Hồ Tây mặt nước rất rộng, đáy sâu và thường
có sóng lớn. Riêng có phần hồ thuộc địa phận làng Trúc Yên là nước nóng, ít
sóng, nhiều bùn tốt nên lắm cá tụ về. Năm Vĩnh Tộ thứ 2 đời Lê Thần Tôn (1620),
dân làng Yên Phụ và làng Yên Quang (khu vực đầu phố Cửa Bắc đến đền Quán Thánh
ngày nay) hợp sức với dân làng Trúc Yên, đắp một con đập từ đầu làng Yên Phụ nối
với đầu làng Yên Quang để chắn giữ lấy cá làm nguồn lợi cho cả ba làng. Đập ấy
gọi là Cố Ngự Yển, tức đập Cố Ngự, có nghĩa là giữ vững. Để kỷ niệm việc này,
người ta có dựng một bia lớn ở phía đầu làng Yên Quang. Đập Cố Ngự mỗi năm lại
được đắp rộng ra, thành một con đê, rồi thành đường đi. Sau này, có lẽ do việc
viết chữ Pháp hoặc quốc ngữ không có dấu, người ta đọc là Cổ Ngư thay cho Cố Ngự.
Cũng
theo sách Long thành dật sự, thì làng Trúc Yên có nghề làm mành trúc, nên các
nhà dân đều trồng trúc thành rừng, để làm nguyên liệu. Đời vua Lê Ý Tôn (1735 -
1738), chúa Trịnh Giang lấy một khu đất của làng Trúc Yên cho xây một toà biệt
điện làm nơi tĩnh dưỡng, gọi là Trúc Tâm Viện. Chỉ được vài năm, biệt điện này
thành một lãnh cung để an trí các cung nữ bị tội. Các cung nữ bị an trí ở đó phải
tự làm việc kiếm sống. Họ phần nhiều là người khéo tay, nên dệt lụa khá đẹp, được
các nơi rất ưa dùng. Rồi nhân dân gọi thành quen thứ lụa của các cung nữ dệt là
"lụa làng Trúc", tức "Trúc bạch". Đã có những câu ca:Lụa
làng Trúc vừa thanh vừa bóng. Cũng từ đó, phần hồ Tây phía làng Trúc Yên cũng
được gọi là hồ Trúc Bạch. Cũng từ thời ấy, triều chính Lê - Trịnh ngày thêm đổ
nát. Số cung nữ ở làng Trúc Yên không còn ai bị kiềm thúc nữa. Năm Chiêu Thống
thứ hai (1788) vì muốn báo thù, Chiêu Thống cho đốt hết cung điện của chúa Trịnh,
Trúc Tâm Viện cũng bị thành tro tàn...Nhưng vẫn còn làng Trúc Yên với nghề mành, nghề lụa. Đê Cổ
Ngư sau thành đường rộng Cổ Ngư. Những năm sau cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, hoà bình lập lại, đường Cổ Ngư đã được thanh niên Hà Nội và nhân dân cùng
góp công sức, qua những ngày lao động xã hội chủ nghĩa, kiến tạo thành con
đường Thanh Niên. Ngày nay, các làng Yên Phụ, Yên Quang, Trúc Yên đều đã thành
phố xá đông vui. Hồ Trúc Bạch đã trở thành một địa danh nổi tiếng với vẻ đẹp
thơ mộng. Người trong Nam ra, ngoài Bắc về Thủ đô đều muốn đến hồ Tây, hồ Trúc
Bạch, đi dạo trên con đường Thanh Niên rợp bóng phượng hồng và bằng lăng tím,
thả hồn trải rộng miên man với nước hồ và gió trời. Người xưa đã vớt bùn đất
lên, tạo đập Cổ Ngư, thành đường Cổ Ngư xưa và đường Thanh Niên hôm nay... Còn
người Hà Nội ngày nay vẫn đang có những việc phải làm cho Trúc Bạch, đó là quy
hoạch, giữ gìn cho hồ nước không bị teo hẹp lại và lúc nào cũng thanh sạch, đẹp
tươi.
Hà Nội - Làng Đồng Nhân
Làng đồng nhân
Ngày nay, nằm sát bờ sông Hồng thuộc về phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng,
Hà Nội có một đơn vị cư dân vốn được gọi là làng Đồng Nhân Châu. Làng này nay
là khu vực nằm dọc phố Bạch Đằng. Ngoài ra, cũng ở quận Hai Bà Trưng, lùi vào
phía Tây, cách bờ sông Hồng chừng hơn 1km cũng có một đơn vị cư dân mang tên
là làng Đồng Nhân. Tên làng này còn được lấy để đặt cho một phường: Phường Đồng
Nhân.
Vậy có hai làng Đồng Nhân riêng rẽ sao? Cứ
Sách "Trưng Vương lưỡng vị sự
tích" ghi
Bộ sử cổ nhất hiện nay còn có được là Việt
sử lược soạn khoảng thế kỷ 14 có ghi: "Canh Thìn, Đại Định thứ 21 (tức
1160) dựng đền Hai Bà và đền Xuy Vu ở phường Bố Cái".
Sách "Đại Việt sử ký toàn thư",
soạn khoảng thế kỷ 15, có ghi: "Năm Đại Định thứ 21 (1160) dựng đền Hai Bà
và đền Xuy Vu ở phường Bố Cái"
Sự so le về niên đại dựng đền thì tình
hình tư liệu hiện có không thể lý giải. Nhưng về địa điểm thì lý giải được.
Nguyên trong tiếng Việt cổ chữ Cái vừa có nghĩa là mẹ (con dại cái mang), vừa
có nghĩa là lớn (đường cái), còn chữ Búa có nghĩa là bến sông.
Búa Cái tức là Bến Lớn. Về sau chữ Búa vốn là một từ Việt cổ được ghi bằng chữ
Hán là Bố, do vậy phường này mang tên chữ là Bố Cái phường. Ngoài ra, đời Lý
kinh thành Thăng Long chia làm 61 phường. Phường Bố Cái ở Đông Nam kinh thành gồm
nhiều khu vực trong đó có khu vực bãi Đồng Nhân, bãi Cơ Xá
Về thời điểm dười đền thì sách
"Trưng Vương lưỡng vị sự tích" có nêu đó là năm Gia Long 18 tức
1819. Vậy là có thể tóm tắt thành những ý chính
1. Từ thế kỷ 12, nhân việc vớt được tượng Hai Bà, vua Lý Anh Tông
cho lập đền thờ Hai Bà ở bãi Đồng Nhân, trên bờ sông Hồng, khi đó thuộc phường
Bố Cái.
2. Đến năm 1819 do bờ sông lở, đền được dời vào xây trên nền Võ Miếu
thuộc đất làng Hương Viên, được vua cấp đất để xây đền, đình, chùa và làm nơi ở
cho một số người ngoài bãi Đồng Nhân dời theo đền vào cư trú nơi đây.
3. Nhưng do bờ sông Hồng lở rồi lại bồi nên ở bãi Đồng Nhân dân vẫn
bám trụ, nối tiếp cư trú sinh sống và cũng đã xây lại một ngôi miếu thờ Hai
Bà, để tưởng nhớ gốc cũ. Do vậy có hai nơi thờ Hai Bà nhưng thực chất chỉ là một.
4. Người dân Đồng Nhân ngoài bãi hay xóm Chùa, mọi phong tục tập
quán, tín ngưỡng vẫn tuân thủ
Hà Tây - Thắng cảnh Hương Sơn
Thắng cảnh Hương Sơn
18/06/2007, 10h05
Vị trí: Khu danh thắng
Hương Sơn thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội 70km.
Đặc điểm:
Nơi đây phong cảnh hữu tình, có "Nam Thiên đệ nhất động" (động đẹp nhất
trời
Từ
Hà Nội đi xe ôtô qua thị xã Hà Ðông, tới Vân Ðình, đến Bến Ðục thì dừng xe để
chuyển sang đi thuyền, xuôi dòng suối Yến chừng 3km là vào đến khu danh thắng
Hương Sơn.
Danh
thắng Hương Sơn bao gồm cả một quần thể: núi non, sông suối, làng mạc, chùa chiền,
hang động... nằm quanh dãy núi Hương Tích, phía bắc rặng Trường Sơn, rộng hàng
ngàn héc ta. Quần thể danh thắng Hương Sơn hình thành ba tuyến chính:
* Tuyến Hương Tích: Gồm có Suối Yến, đền Trình, cầu Hội, chùa Thanh Sơn, Hương
Ðài, Thiên Trù, Hinh Bồng, chùa Tiên, Giải Oan, đền Cửa Võng, động Hương Tích.
Suối Yến:
Trong thắng cảnh Hương Sơn, các dòng suối và núi non ở đây đã tạo nên cảnh
"sơn thuỷ hữu tình" như mộng, như mơ, đặc biệt là suối Yến. Suối Yến
mang một vẻ đẹp hiền hoà, buông thả giữa hai triền núi. Ðường suối dài khoảng
3km với khúc thẳng, khúc quanh, cho ta cảm giác như dòng suối này dài vô tận.
Vào mùa lễ hội, dòng suối hiền hoà bỗng sôi động hẳn lên, bởi những con thuyền
thoi thong thả chở khách vào vãn cảnh đẹp và lễ phật. Lên thuyền từ Bến Ðục,
theo dòng suối Yến, du khách có thể thư thái thả hồn mình hoà quyện cùng thiên nhiên.
Phía bên trái là núi Ðụn, trông tựa như một đụn thóc; gần núi Ðụn là núi Soi
trông giống như một con kỳ lân nên còn gọi là núi Lân; cạnh núi Soi là núi Ái
và núi Phượng đang dang rộng cánh (cánh là hai chỏm núi) mà đầu và mỏ Phượng là
chùa và động Thanh Sơn; đi quá lên một chút là núi Ðổi Chèo giống hình một con
trăn lớn đang bò trên mặt nước; gần đó là núi Bưng và núi Voi với những truyền
thuyết thật thú vị vì Hương Sơn có tới chín chín ngọn núi quay đầu về động
Hương Tích, riêng có một ngọn núi có hình dáng con voi quay đầu ra, quay mông
vào. Giận quá, Hộ Pháp lấy gươm phạt vào một mảng mông của tên voi nên bây giờ
núi Voi vẫn bị sạt mất một mảng; qua núi Voi, đến núi Mâm Xôi. Phía bên phải, từ
ngoài vào là núi Ngũ Nhạc có Ðền Trình. Du khách dừng chân vài phút để ghé vào
thắp hương, trình lễ với sơn thần. Ði tiếp là núi Dẹo, núi Phòng Sư, hang Sơn
Thuỷ Hữu Tình, hang Trâu, Cầu Hội, Thung Dâu... Và chỗ cuối cùng của dòng suối
Yến là rừng Vài và núi Nhà Lang Lão Tác. Từ điểm này du khách xuống thuyền và bắt
đầu lựa chọn tuyến du lịch của mình.
Chùa Thiên Trù
Chùa còn có tên gọi là chùa Trò, trước đây chỉ là một thảo am nhỏ do Hoà thượng
Vân Thuỷ Thiền Thiên Trần Ðạo Viên Quang chân sáng lập. Trong kháng chiến chống
Pháp chùa đã bị phá huỷ. Sau năm 1954 chùa được xây dựng lại. Năm 1991, Tam bảo
Thiên Trù được xây dựng lại to đẹp như ngày nay. Bên phải chùa là vườn tháp,
nơi cất giữ xá lị của các vị Tổ sư quy tịch tại đây. Sau chùa, bên sườn núi còn
có toà " Thiên thuỷ tháp", bên trái có chiếc hồ hình bán nguyệt.
Sau
khi vào chùa lễ Phật, du khách nghỉ ngơi lấy sức để tiếp tục cuộc hành trình mới.
Chùa Tiên Sơn:
Từ
Thiên Trù (chùa Ngoài) rẽ phải, theo một con đường nhỏ men sườn núi lối đi vào
chùa Trong, khoảng hơn 1km là tới chùa Tiên Sơn. Chùa được dựng trên một ngọn
núi cao. Chùa nhỏ, xinh, cổng tam quan vút cao như sắp bay lên. Chùa ở trong động
gọi là động Núi Tiên, thờ Phật Bà Quan Thế Âm. Trong động có những nhũ đá rủ xuống
với nhiều dáng vẻ khác nhau. Có những nhũ đá khi gõ vào thì nổi lên tiếng tiêu
thiền nhã nhạc du dương.
Chùa Giải Oan:
Vẫn
trên đường vào chùa Trong, rẽ tay trái là chùa Giải Oan. Chùa do Sư Tổ Thông Dụng
huý Thám pháp danh Cương Trực đời thứ 2 khai sáng. Chùa được dựng ở lưng chừng
núi Long Tuyền, lúc đầu chỉ là một thảo am nhỏ bằng tre gỗ đơn sơ. Chùa đã qua
trùng tu vào các năm 1928, 1937. Năm 1995, chùa được tu bổ thêm am Từ Vân, kè lại
sân chùa.
Chùa
là nơi thờ phụng đức Bồ Tát Quan Thế Âm. Hiện nay am Từ Vân còn lưu giữ được
pho tượng Tứ Tý Quan Âm được đúc vào thế kỷ 18. Trong chùa có giếng Thanh Trì
trong suốt không bao giờ cạn. Tương truyền đây chính là nơi đức Chúa Ba (Bồ Tát
Quan Âm Diệu Thiện) đã dùng để tắm, tẩy sạch bụi trần ai, trước khi đi vào cõi
phật. Từ đó giếng này được gọi là giếng Giải Oan, khách đi lễ thường múc nước
nước uống để cầu mong giải thoát khỏi mọi nỗi oan ức trên đời.
Chùa
Giải Oan có kiến trúc hài hoà, nằm giữa cảnh thiên nhiên thanh tao u tịch, càng
làm tăng thêm vẻ tôn nghiêm, huyền bí. Du khách đến đây được uống dòng nước mát
lạnh của giếng Thanh Trì, như quên đi những ưu tư của đời thường khi hành hương
về cõi Phật.
Động Hương Tích
Từ chùa Giải Oan, du khách lại tiếp tục cuộc hành trình khoảng 2,5km lên động
vào chùa Hương Tích (còn gọi là chùa Trong). Ðường lên động có nhiều chỗ quanh
co, lúc lên dốc, lúc xuống dốc. Càng gần tới động thì dốc càng cao. Lên tới bậc
đá cao nhất đứng nhìn xuống, du khách sẽ nhìn thấy một vòm hang rộng, sâu, hun
hút trông giống như hàm của một con rồng, đó là động Hương Tích.
Qua
cổng, đi xuống 120 bậc đá là vào tới lòng động. Ngay ở khoảng giữa, gần cửa ra,
vào, có một nhũ đá gọi là "đụn gạo". Ði sâu vào một chút có một lối
lên Trời và một lối xuống âm phủ. Trong động, những măng đá, nhũ đá rủ xuống tạo
thành muôn hình vạn dạng, người xưa thoả sức để đặt tên: nong tằm, né kén, chuồng
lợn, ao bèo, cây vàng, cây bạc, đầu cô, đầu cậu... Bên cạnh những công trình
điêu khắc thiên nhiên còn có những công trình điêu khắc nhân tạo, giá trị nhất
là pho tượng Phật Bà Quan Thế Âm bằng đá xanh tạc vào thời Tây Sơn.
Hương
Tích là một động đẹp nổi tiếng và đã được chúa Trịnh Sâm (thế kỷ 17) tự tay đề
năm chữ Hán lên cửa động: "Nam Thiên đệ nhất động" (Ðộng đẹp nhất trời
*
Tuyến Long Vân: Gồm có động và chùa Long Vân, động Tiên, động Người Xưa, chùa
Cây Khế, Hinh Bồng Tự.
Chùa Long Vân:
Sau
khi vào đặt lễ ở đền Trình, xuống đò đi tiếp, du khách sẽ thấy dòng suối rẽ
đôi, phía phải là đường vào Hương Tích, phía trái là đi vào động và chùa Long
Vân.
Chùa
nằm ở trên sườn núi, một nửa lấp sau núi Ân Sơn, một nửa lộ ra giữa rừng cây
xanh biếc, mây trắng quấn quýt quanh năm. Chùa được xây dựng vào năm 1920. Ðộng
Long Vân cũng được khai tạo vào thời gian này. Ðộng tuy nhỏ nhưng lam khói
quanh năm nên lúc nào cũng tạo cho du khách cảm giác thần tiên thoát tục.
*Tuyến
chùa Tuyết: Gồm có đền trình Phú Yên, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả, Bảo Ðài, đền Mẫu,
đền Thượng, động Ngọc Long...
Chùa Tuyết Sơn:
Sau
khi vào chùa Thiên Trù, theo con đường nhỏ men sườn núi, rẽ trái, đi phía nam
khoảng 4km là tới khu Tuyết Sơn. Ðây là một quần thể đẹp thứ hai sau động Hương
Tích. Suối Tuyết tuy nhỏ nhưng nước trong xanh, uốn lượn quanh co như một con rồng
đang bò sâu vào trong dãy núi cao chất ngất. Ðiểm dừng đầu tiên trong tour du lịch
này là vào thắp hương, trình lễ ở đền Trình Phú Yên. Sau đó vào Bảo Ðài cổ sái
để lễ phật, nghe kinh. Chùa Bảo Ðài có phong cảnh phong quang u tịch. Trong
chùa có toà Cửu Long có giá trị mỹ thuật khá cao.Ði tiếp là đến động Ngọc Long. Ðộng Ngọc Long không
rộng lắm nhưng có những nét đẹp độc đáo. Trong động, ánh sáng mờ ảo, nhũ đá,
măng đá rủ xuống trông như những ổ rồng quấn quýt. Ðẹp nhất vẫn là pho tượng Bồ
Tát Quan Thế Âm tạc liền vào vách đá với vẻ mặt rất từ bi, nhân hậu.
Cinet
Hà Tây - Quan Sơn
Quan Sơn - Hà Tây
|
Nằm trong quần thể khu danh thắng tâm linh chùa
Hương, Quan Sơn vài năm trở lại đây được du khách mệnh danh là “Hạ Long cạn” của
Mỹ Đức. Đến đây, du khách có thể tha hồ thưởng ngoạn cảnh trời mây, nước biếc
bao la, rũ bỏ mệt mỏi bởi những tuor sinh thái dưới mặt hồ, trên sườn núi hấp dẫn.
Những
ngày hè oi bức, thoát khỏi ồn ào, bụi bặm, từ thị xã Hà Đông xuôi theo đường
21B khoảng gần 50km, du khách sẽ đặt chân đến hồ Quan Sơn, thuộc huyện Mỹ Đức.
Gần 100 ngọn núi đá nhấp nhô, hình thù ấn tượng, và đa số rất tròn bao quanh mặt
hồ, trong đầu du khách sẽ có ý tưởng về một chuyến du lịch sinh thái hấp dẫn!
Với
diện tích tổng thể 850 ha, hồ Quan Sơn vinh dự "sở hữu" một thảm thực
vật, sinh vật đa dạng trên và trong lòng hồ. Những năm 1994 trở về trước, hồ
Quan Sơn đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn nước lũ rừng ngang, tạo bể
chứa thủy lợi tưới tiêu cho hơn 2.000 ha cây trồng của Mỹ Đức và nuôi trồng thủy
sản. Tuy nhiên, khi nhận thấy cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, khoáng đạt, UBND
huyện Mỹ Đức đã bắt đầu có nhiều động thái đánh thức tiềm năng du lịch nơi đây.
Đầu tiên là việc ra đời Công ty Thủy sản và Du lịch Quan Sơn. Với nhiệm vụ
chính là nuôi trồng thủy sản và dần hình thành các tuyến du lịch sinh thái
quanh hồ. Lãnh đạo Công ty nhận thấy việc kết hợp các tour du lịch sinh thái ngắm
cảnh quanh hồ và phục vụ ăn uống các món đặc sản từ chính lòng hồ sẽ hấp dẫn du
khách. Và thế là từ đó, Quan Sơn đã trở thành điểm hẹn của những ai yêu và muốn
khám phá thiên nhiên.
Buổi
sáng tiết trời mát mẻ, du khách sẽ được các hướng dẫn viên khu du lịch đón lên
những thuyền nhỏ để "khởi hành" chuyến đi. Đầu tiên là chèo thuyền
thưởng ngoạn cảnh thiên nhiên hùng vĩ, ngắm những ngọn núi còn nguyên vẻ hoang
sơ. Phóng tầm mắt ra xa, trước cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, bát ngát, du khách
liên tưởng như mình đang được du thuyền trên một Vịnh Hạ Long thu nhỏ. Quả thật,
tên các ngọn núi cũng khiến du khách thích thú: núi Hòn Mê, Mõm Nghé, Quai
Chèo, Bàn Cờ, Hoa Quả Sơn, Cửa Thung Voi Nước, Đá Bạc... Xuôi xuống lòng hồ, du
khách có thể thăm khu vườn sinh học, trồng cây ăn quả vùng Thung Mơ và thưởng
ngoạn tập thơ “Thung Mơ Hương tích” nổi tiếng. Trong khu vườn này, du khách sẽ
được tham quan một số loài động vật vùng núi đá vôi Hương Sơn và Quan Sơn như
khỉ, sóc, sơn dương, trăn đất, tắc kè...
|
Ngoài
ra, nếu không muốn dã ngoại leo núi, du khách có thể tha hồ chơi các môn thể thao
dưới nước như bơi lội, bơi thuyền hay đơn giản chỉ là thư thái ngâm mình dưới
làn nước trong xanh, mát lạnh của hồ Quan Sơn.
Lên
bờ, đói và mệt. Hãy chờ trong một vài phút, bạn sẽ được nhân viên Nhà hàng của
Công ty phục vụ 2 món đặc sản duy nhất chỉ có ở Quan Sơn, đó là gỏi cá cúc tần
và mắm tôm đồng riu. Và sẽ bất ngờ hơn nữa, khi lần đầu tiên du khách được thưởng
thức hương vị của món gỏi cá Quan Sơn. Cá được lấy từ dưới lòng hồ, loại cá
ngon nhất, tươi nhất và chắc thịt nhất. Cuốn miếng gỏi cá để thưởng thức thấy vị
thơm ngọt, mát của cá tươi, vị cay, chua hỗn hợp của phụ gia riềng, gừng, tỏi,
xả và các loại lá cây ăn kèm lấy trên núi Quan Sơn có tác dụng bồi bổ sức khỏe,
không độc như: dền chua, cúc tần, mùi tàu, lá mơ, sung, gừng, đọt trúc... Gỏi
cá là món đặc sản bí truyền ở Quan Sơn. Nhưng riêng món tôm đồng riu chỉ có ở
lòng hồ Quan Sơn làm mắm thì còn tuyệt vời hơn. Tiếc rằng, món ăn này chỉ mùa
đông mới có, nhiều nhất là vào tháng 10-11, vì khi ấy tôm đồng Quan Sơn sinh sản
nhiều, tôm béo. Nếu một lần được thưởng thức món mắm tôm đồng riu Quan Sơn chấm
với đậu phụ hoặc thịt ba chỉ luộc thái con chì, chắc chắn du khách sẽ nhớ mãi đến
Quan Sơn.
Có
thể nói sự hấp dẫn của du lịch Quan Sơn là cái đẹp tự nhiên, thuần phác đến mức
hoang sơ. Nhiều khách nước ngoài "mê" du lịch Quan Sơn nhưng các điều
kiện dịch vụ hạ tầng vẫn còn rất thiếu, nên chẳng thể ở lại được lâu.
Với
tiềm năng du lịch sinh thái đa dạng, nhiều tour leo núi, khám phá thiên nhiên kỳ
thú, hấp dẫn các bạn trẻ, trong một vài năm tới, khi cơ sở hạ tầng và điều kiện
nghỉ dưỡng được cải thiện một bước, khu du lịch Quan Sơn, vùng "Hạ Long cạn"
ở Hà Tây sẽ là một nơi nghỉ hè hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước, bổ
sung thêm một địa chỉ lý tưởng vào danh mục các khu du lịch sinh thái môi trường
bền vững ở Việt Nam.
(Cinet)
Hà Tĩnh - Hồ Kẻ Gỗ
Hồ Kẻ Gỗ
18/06/2007, 10h44
Vị trí:
Thuộc huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, cách thành phố Vinh 70km về phía nam.
Đặc điểm: Hồ là một cảnh đẹp nhân tạo nằm giữa các sườn
đồi.
Công trình hồ Kẻ Gỗ được khởi công
xây dựng năm 1976 và hoàn thành vào năm 1980. Hồ dài gần 30km, gồm 1 đập chính
và 10 đập phụ với sức chứa 300 triệu m3 nước. Ngày nay, hồ Kẻ Gỗ còn là một
điểm tham quan du lịch hấp dẫn. Đến thăm hồ Kẻ Gỗ, du khách có thể tắm mát, câu
cá, leo núi hay săn bắn trên các triền núi ven hồ. Hồ Kẻ Gỗ còn là nguồn cung
cấp thực phẩm dồi dào cho các vùng lân cận. Cá tôm dưới đáy hồ rất to và thơm
thịt. Con lớn nặng tới vài chục kg.
Cinet
Hà Tĩnh -Thiên Cầm
Đến Thiên Cầm - Nghe
tiếng đàn trời
|
Nằm ở vùng du lịch Bắc Trung Bộ, Hà Tĩnh là đầu ngõ
của tuyến du lịch “Con đường di sản”. Hà Tĩnh còn là quê hương của nhiều danh nhân
văn hóa, nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: hồ Kẻ Gỗ, vườn quốc gia Vụ
Quang, ngã ba Đồng Lộc… Thị trấn Thiên Cầm nằm ở phía Đông của thị xã Hà Tĩnh,
nơi tiếp giáp với biển Đông, là địa danh có núi, có biển và có cả đồng bằng.
Theo
sử sách và truyền thuyết kể lại rằng: Xưa kia vua Hùng đi kinh lý vào phía
“Địa danh kỳ thú
Thiên Cầm
Núi non, danh thắng
vua Hùng đặt tên”.
Nhưng
cũng có truyền thuyết kể lại rằng: Sau khi bị nhà Minh cướp ngôi, cha con Hồ
Quý Ly cùng thuộc hạ bỏ trốn vào đất Kỳ La, Thiên Cầm với ý định vượt Hoành Sơn
vào Tân Bình Thuận Hóa xây dựng lại nghiệp bá vương. Nhưng nơi tận cùng của quốc
gia lúc bấy giờ với cửa biển Kỳ La và hang Dương Hùng cũng không dung nổi cơ
nghiệp nhà Hồ. Quân Trương Phụ (giặc Minh) đuổi gấp bắt sống Hồ Quý Ly tại núi
Thiên Cầm, sau đó con trai ông là Hồ Hán Thương cũng bị bắt ở núi Cao Vọng (Kỳ
Anh). Trong thi ca cũng có ghi chép:
“Núi Cao Vọng, bể Kỳ La
Cha con bị bắt
cũng là trời xui.”
Núi
Thiên Cầm có độ cao 108m, hướng mặt ra biển Đông, nằm kề những bãi biển đẹp tạo
thành nơi sơn thủy hữu tình. Trên núi còn có chùa Cầm Sơn, dưới chân núi không
xa có chùa Yên Lạc - nơi có bức tranh “Thập điện diêm vương” nổi tiếng, gần
đó có nhà thờ Cẩm Nhượng, xa hơn nữa du khách sẽ nhìn thấy hòn đảo Bơ’s nằm trơ
vơ giữa biển cả và hòn Hải Đăng ở phía chân trời xa.
Đến
thăm Thiên Cầm, du khách sẽ được hòa mình vào những cơn sóng vỗ của biển cả, thả
hồn vào trời mây trên đỉnh núi hay tham quan những danh lam nổi tiếng và thưởng
thức những món ăn của vùng biển miền trung đầy nắng và gió. Hãy một lần đến với
Thiên Cầm để lắng tai nghe tiếng đàn trời thánh thót bên tai.
(Cinet)
Hà Tĩnh - Suối nước nóng Kim Sơn
Sơn kim - Suối nước
nóng
Nằm giáp biên giới Việt Nam và Lào,
cuối đường số 8 là xã Sơn Kim thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ở đó
có một dòng thác - suối chảy xiết từ những vách núi cao đổ dồn xuống, có nơi
thì ồ ạt, có đoạn êm đềm nước chảy bào mòn những bãi đá trơn, nhẵn và láng
bóng. Từ rất lâu, dòng thác đẹp này chưa hề được khám phá. Chỉ cách đây khoảng ba năm khi một người dân
phát hiện ra những mạch ngầm nước nóng thì nơi đây mới bắt đầu nổi lên
Điểm thú vị và độc đáo của vùng này
là khách du lịch vừa leo núi, vừa được tắm biển. Bạn là người thích phiêu lưu
thì hãy dùng dây thừng treo mình vào một gốc cây nào đó, rồi đu xuống những nhỏm
đá cheo leo để thưởng thức không chán những bản đồng ca vô tận của những dòng
thác chảy xiết tung bọt trắng xóa. Nếu cảm thấy cần nghỉ một lúc, bạn có thể
tìm đến một hòn đá bằng phẳng nào đó nghỉ ngơi và ăn uống. Du khách còn có thể
hái sim rừng nhấm nháp.
Thật là tuyệt diệu khi chiều về thả
bộ bên bờ dòng suối chảy nhẹ, và bạn có thể tìm đến một khúc suối yên bình để
ngụp lặn trong làn nước mát. Du khách nếu thích nghỉ qua đêm, bạn hãy căng lều đánh
một giấc ngon lành giữa những bóng cây rừng. Và đặc biệt là sâu hơn vào hướng
Nam khoảng 50m, bạn sẽ đến một khúc suối ngầm ngày đêm phun đều nước đủ ấm để tắm
khi đông về.
Hải Dương - Côn Sơn
Côn sơn
...Côn
Sơn có suối, nước chảy rì rầm làm đàn cầm
Côn Sơn có đá,
mưa xối rêu xanh đậm, ta lấy làm chiếu thảm
Trong núi có thông, muôn dặm rờn biếc một vùng, ta tha hồ nghi ngơi
Trong rừng có trúc, ngàn mẫu in biếc lục, ta tha hồ ngâm nga bên gốc..
Côn Sơn tức núi Kỳ Lân, hay
tên dân gian quen gọi núi Hun, cao gần 200m, dài trên 1km, nay thuộc xã Cộng
Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Phía Bắc giáo núi Ngũ Nhạc, cao 238m, trên
đỉnh có miếu thờ thần gọi là Ngũ Nhạc Linh Từ, phía tây tiếp nối núi U Bò, có một
thung lũng xanh tươi, những mái nhà tranh ẩn hiện trong lũy tre làng. Phía Đông
là chùa và hồ Côn Sơn. Hướng Đông Bắc có một quả núi hình hoa sen quanh năm
tươi tốt có tên là Bài Vọng nơi để di hài Phi Khanh, cha của Nguyễn Trãi. Phía
Thắp xong tuần hương ở nhà thờ
tổ, mời bạn bắt đầu hành trình lên bàn cờ.
Tiên - cũng là đỉnh Côn Sơn.
Hơn 900 bậc đá xếp uốn lượn qua các đồi thông rì rào lọc nắng, gió lồng lộng thổi
quấn quít vị hương ngai ngái nồng của thông mã vị.. Trên đỉnh là khu đất bằng
phẳng còn nền di tích của một kiến trúc cổ hình chữ công. Bốn phía trập trùng đồi
cây, mênh mông sông nước Lục Đầu Giang, ngửa mặt lên thăm thẳm trời xanh, bạn sẽ
thấy khoáng đạt tầm mắt, mở mang tâm hồn, cảm nhận được thanh khí thiên nhiên,
dễ dàng tìm được mình trong cõi hư vô.. Xa thêm nữa về hướng Đông - Bắc, theo
đường núi 5 km, len lỏi qua thung lũng xanh tươi, êm đềm làng quê, bạn sẽ đến
thăm đền Kiếp Bạc - một di tích lịch sử nổi tiếng - nơi lưu giữ nhiều vật tích
quý báu cùng biết bao truyền thuyết ly kỳ về Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
Do một sự trùng hợp ngẫu nhiên, bắt đầu hội Kiếp Bạc (16-8 Âm lịch) là ngày mất
của Nguyễn Trãi thì kết thúc hội là ngày mất của Trần Hưng Đạo (20-8 Âm lịch).
Mấy năm gần đây, hội Côn Sơn - Kiếp Bạc đã trở thành một dịp lễ hội lớn, thu
hút rất nhiều khách thập phương trong nước và ngoài nước.
Sáu thế kỷ trước, Côn Sơn
Dù cảnh quan đã đổi thay, con
người cũng trở nên vô tình với thiên nhiên hơn, nhưng hồ xa khí thiêng vẫn
còn đó, Côn Sơn vẫn đang mơ ước đến ngày mai sẽ, ".. có bóng mát để nghỉ,
chổ vắng để ngồi, mùi thơm để ngửi, sắc đẹp để xem. Phàm những hình ảnh trong
mát, tiếng suối reo xa vời mà hư không, sâu thẳm mà yên lặng, hợp với tai mắt
và tâm hồn người ta ở đây có đủ cả…
Hải Dương - Đảo cò Chi Lăng
Đảo cò Chi Lăng
Hải Phòng - Bãi biển Đồ Sơn
Bãi biển Ðồ Sơn
18/06/2007, 10h50
|
|
Vị trí: Bãi biển Ðồ Sơn
nằm ở thị xã Đồ Sơn, Tp. Hải Phòng.
Đặc điểm:
Ðồ Sơn là khu nghỉ mát và tắm biển nổi tiếng ở miền Bắc.
Ðồ
Sơn là một bán đảo nhỏ do dãy núi Rồng vươn dài ra biển, với hàng chục mỏm cao
từ 25 đến 130m, nơi đây có bãi cát mịn, bên bờ biển rợp bóng phi lao. Sau là những
ngọn núi và đồi thông. Ðồ Sơn hội tụ các điều kiện: cơ sở vật chất là nhà cửa,
khách sạn, nhà hàng, đường xá, điện nước khá hoàn chỉnh. Trước đây Ðồ Sơn là
nơi lui tới nghỉ ngơi, hưởng thụ của vua chúa quan lại đô hộ. Nơi đây còn ngôi
nhà bát giác kiên cố của Bảo Ðại - ông vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt
Bãi tắm Ðồ Sơn chia làm 3 khu
chính: khu 1 nằm ngay đầu thị xã Ðồ Sơn, khu 2 có nhiều khách sạn hiện đại, khu
3 yên tĩnh và kín đáo. Vào ngày hè, Ðồ Sơn thật sống động. Du khách khắp mọi miền
đất nước cũng như khách quốc tế về đây tắm biển, nghỉ ngơi và leo núi, ngắm
nhìn ba thế biển đẹp.
Cinet
Hải Phòng - Khu Bảo tồn Cát Bà
Khu Bảo tồn sinh quyển
thế giới Cát Bà
18/06/2007, 10h56
|
|
|
Vị trí: Khu Bảo tồn
sinh quyển thế giới Cát Bà nằm trên đảo Cát Bà, thuộc thị trấn Cát Bà, huyện
Cát Hải, Tp. Hải Phòng.
Đặc điểm:
Đây là một trong những khu bảo tồn sinh quyển thế giới.
Cát
Bà là một quần đảo có tới 366 đảo lớn, nhỏ. Ðảo chính là Cát Bà rộng khoảng
100km², cách cảng Hải Phòng 30 hải lý, tiếp nối với vịnh Hạ Long, tạo nên một
quần thể đảo và hang động trên biển làm mê hồn du khách. Đến đây du khách sẽ được
tận hưởng không khí trong lành và hoà mình vào với thiên nhiên tươi đẹp.
Diện
tích vườn quốc gia Cát Bà được quy hoạch bảo vệ là 15.200ha, trong đó có
9.800ha rừng và 4.200ha biển.
Ðịa
hình vườn đa dạng, chủ yếu là dãy núi đá vôi với nhiều hang động kỳ thú và xen
kẽ là những bãi cát trắng phau, mịn màng, nơi du khách tắm biển. Các ngọn núi
đá vôi có độ cao trung bình 150m, cao nhất là đỉnh Cao Vọng cao 322m so với mặt
biển.
Theo
một câu chuyện dân gian vùng Ðông Bắc, đảo Cát Bà khi xưa vốn là hậu cung của
người đàn ông đầu tiên đến khai sơn phá thạch ở vùng này. Khi ông phát hiện ra
cái vịnh quý giá với nhiều hòn đảo đẹp mà sau này có tên là Hạ Long, thì cũng
là lúc ông phải cưu mang cùng lúc nhiều số phận nhi nữ đơn côi, mà chồng của họ
đã vĩnh viễn không trở về sau những chuyến đi biển đầy bất trắc. Rồi để rảnh
tay khai phá vùng Hòn Gai, Bãi Cháy, ông đã tập hợp tất cả các bà ra sống tại
hòn đảo xinh đẹp, trù phú, biệt lập giữa biển khơi, nằm trong vịnh Lan Hạ. Vì
thế, sau này vùng đất Bãi Cháy, Hòn Gai có tên là Ðất Của Ông, còn hòn đảo kia
thì có tên là Ðảo Các Bà. Trải bao biến đổi, thăng trầm, bây giờ còn lại hai địa
danh Cửa Ông (Quảng Ninh) và Cát Bà (Hải Phòng) là do gọi chệch đi mà thành.
Lại
có câu chuyện khác gắn với lịch sử giữ nước của Việt Nam rằng, thời chiến đấu
chống quân Nguyên xâm lược, người anh hùng dân tộc Trần Hưng Ðạo đã chọn vùng
biển Ðông Bắc này làm nơi tập kết, luyện quân, tích trữ lương thảo. Những hang
động trong vùng biển này đều được huy động vào việc cất giấu quân lương, che ém
tàu thuyền của quân ta. Vì vậy, vùng biển phía Hạ Long được chọn làm khu vực
quân sự - ngày nay còn có Hang Dấu Gỗ tương truyền là nơi quân ta cất dấu những
chiếc cọc gỗ bịt sắt đã làm nên chiến thắng Bạch Ðằng lừng lẫy, còn vùng biển
phía vịnh Lan Hạ là nơi tích trữ lương thảo, chăm sóc y tế, là khu vực do Các
Bà cai quản. Vì thế mà có tên là Cửa Ðức Ông, Ðảo Các Bà, sau gọi chệch thành Cửa
Ông, Cát Bà...
Khí
hậu trên đảo Cát Bà rất mát mẻ, trong lành, thích hợp cho du lịch nghỉ ngơi,
tĩnh dưỡng. Từ Hà Nội đến Cát Bà, khoảng 150km về phía đông, thuận tiện nhất là
đi bằng đường bộ hay đường sắt đến Hải Phòng rồi từ Hải Phòng dùng ca nô hoặc
tàu thủy ra đảo. Thuê một chiếc tàu du lịch, bạn có thể đi khắp vịnh Lan Hạ,
ghé vào hơn 100 bãi tắm lớn nhỏ khác nhau, những bãi tắm cực đẹp với cái tên thật
hấp dẫn: Cát Cò 1, Cát Cò 2, Bãi Ðá Bằng, Bãi Bến Bèo, Bãi Cô Tiên...
Thậm
chí, bạn có thể vòng sang vịnh Hạ Long, cũng chỉ mất 4 đến 6 giờ để tha hồ ngắm
cảnh và ghé thăm những bãi tắm không tên, những hang động kỳ thú còn chưa được
đưa vào danh sách khai thác. Ngay ở đảo Cát Bà, bạn cũng có thể đi thăm động
Trung Trang, động Hoa Cương, động Thiên Long, nơi hứa hẹn nhiều phát hiện lý
thú.
Cát
Bà là một cụm du lịch thiên nhiên, sinh thái không thể tách rời. Ở đây đã phát
hiện được nhiều di tích khảo cổ học thuộc thời kỳ đồ đá mới, những di tích văn
hoá Hạ Long và dấu vết của người Việt cổ. Ngày nay Cát Bà trở thành vườn quốc
gia, bảo tồn trong lòng mình hệ sinh thái rừng nhiệt đới nguyên sinh. Biển Cát
Bà có tới 300 loài cá biển, 500 loài thân mềm và giáp xác, trong đó nhiều loại
có thể dùng làm nguyên liệu sản xuất hàng mỹ nghệ quý như đồi mồi, tôm rồng,
trai ngọc, san hô, vỏ trai, ốc biển...
Vườn
Quốc gia Cát Bà vừa có rừng, vừa có biển với nguồn tài nguyên phong phú, cảnh
quan đẹp và nhiều loại động thực vật quí hiếm. Tổng diện tích của vườn là
15.200ha, trong đó diện tích rừng núi là 9.800ha và diện tích biển là 4.200ha.
Ðịa hình đa dạng, chủ yếu là núi đá vôi có nhiều hang động. Với độ cao trung
bình là 150m, trong vườn còn có nhiều đèo nhỏ như đèo Ðá Lát, đèo Eo Bùa, đèo
Khoăn Cao... và nhiều suối lớn quanh năm có nước như suối Thuồng Luồng, suối
Treo Cơm, suối Việt Hải... Rừng Cát Bà thuộc loại rừng nhiệt đới với các kiểu
phụ thổ nhưỡng đặc biệt. Rừng trên núi đá vôi chiếm diện tích lớn nhất, xen kẽ
là những khu rừng mọc tự nhiên trên núi đất, đặc biệt ở khu vực Trung Trang có
khu rừng Kim Giao mọc tự nhiên. Hệ thực vật ở đây có 620 loài, thuộc 123 họ có
giá trị như Chó Ðãi, Trai Lý, Lát Hoa, Ðinh, Kim Giao... Ðây là những loại cây
cần được bảo vệ và phát triển. Hệ động vật ở đây cũng rất phong phú với 20 loài
thú, 69 loài chim, 20 loài bò sát và lưỡng cư, đặc biệt có loài Voọc đầu trắng
thường sống ở các vách đá cheo leo ven biển - đây là một loài thú rất quí hiếm
mà bây giờ chỉ còn thấy ở Cát Bà. Hang động trên đảo Cát Bà cũng rất phong phú,
mỗi hang có một vẻ đẹp khác nhau, tạo ra những bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, sống
động khiến người xem như lạc vào cõi tiên. Tiêu biểu nhất là hang Luồn, động
Trung Trang, động Gia Luận, động Thiên Long... với những nhũ đá muôn hình, muôn
vẻ, rất đẹp mắt.Cát
Bà hôm nay vẫn còn như một nàng tiên e lệ giữa biển khơi với dáng vẻ nguyên sơ,
còn giữ được sức hấp dẫn với những truyền thuyết bao đời về bề dày lịch sử văn
hoá của vùng đất này.
Cinet
Hoà Bình - Động Tam toà Phú lão
Động Tam toà Phú lão
Nói đến Hòa Bình
là nhắc đến công trình thủy điện Sông Đà, suối nước khoáng Kim Bôi, bản làng
dân tộc Mường mang bản sắc văn hóa đa dạng:
Ăn
cơm lam
Uống
rượu cần
Trâu treo mõ
Chó
leo thang
Và còn nữa, một quần thể thắng
cảnh chùa Tiên Phú Lão đã được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp bằng công nhận
năm 1989. Trong tất cả hang động tạo thành khu thắng cảnh, động Tam Tòa được
xem là động hùng vĩ và kỳ ảo nhất. Động Tam Hòa nằm trong địa phận xã Phú Lão,
huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình, cách Hà Nội 149 km nếu đi theo quốc lộ 64 qua dốc
Cum, muốn nhanh hơn đi tắt từ Tân Mai - Sơn Tây, chặng đường chỉ còn vỏn vẹn
110 km. Một ngõ khác không kém phần hấp dẫn nhưng chỉ dành cho khách có sức khỏe,
ưa mạo hiểm, tiện đường tham quan thắng cảnh Hương Sơn - Hà Tây sau đó qua
thung Mơ, vượt núi tìm đến động.
Cửa động Tam Tòa lộ thiên giữa
sườn núi Rộc Đản, nhìn từ xa tưởng như rất gần, nhưng muốn đến động phải vượt
qua hai chặng đường, một con đường mòn quanh co theo sườn đồi để đặt chân rồi đến
chân núi. Chặng đường còn lại cam go hơn vì dài đến 430m, dốc lại đứng ít nhiều
làm chùn bước khách lữ hành. Nhưng thiên nhiên là liều thuốc trợ lực vì càng
lên cao khách càng thỏa lòng bởi cảnh vật: "Cỏ cây chen đá lá chen
hoa". Thỉnh thoảng có những khúc quanh xuất hiện những bụi tre, bóng mát
phủ cả khoảng đất bằng phẳng vừa tiện làm chỗ nghỉ chân vừa nhìn ngắm vùng
trung du bát ngát, những bản làng dân tộc Mường hiền hòa hay dòng sông Rộc Bếch
lung linh ánh bạc. Xa hơn nữa, núi tiếp núi, mờ ảo dưới lớp khói lam trải dài đến
vô tận.
Nối liền cửa động là một hang
luồn khá rộng rãi dài 16m được chắn giữa một án thờ lớn chia ra làm 3 bậc, biểu
tượng cho Tam Tòa: thờ đệ nhất Thượng Thiên (Ngọc Hoàng Thượng Đế), đệ nhị Thượng
Ngàn (Bà Chúa trấn giữ núi rừng), đệ tam Thoái Phủ (tổ tiên sinh ra con cháu Lạc
Hồng). Động có dạng hình chữ Y, có tổng chiều dài 450m chia làm 3 tòa, 12 cung
trong đó có 3 cung vì đường vào hiểm trở chưa cho phép khách vào. Cung thứ nhất
đến cung thứ tư tập trung một hang lớn nằm bên trái điện thờ, vòm cao trên 40m
và bề rộng suýt soát 35m, mỗi cung mỗi phong cảnh thạch nhũ đầy lý thú.
Nếu cung thứ nhất là rừng hoa
sen được thời gian điêu khắc những đường nét tinh xảo, thì cung thứ hai những lớp
thạch nhũ trắng tinh sắp lớp
Theo một cầu thang bằng cây,
khách đi lên tầng hai và đi vào hang Bạch Tuyết là những cung cuối cùng của động.
Quả bất ngờ khi cùng một động nhưng các hang nhũ mang màu sắc vàng sậm, còn
hang Bạch Tuyết lại khoác màu trắng tinh khiết lấp lánh vô số những hạt thủy
tinh đeo bám trong đá. Các nhũ hình thì muôn hình vạn trạng, nơi thì hàng trăm
mảnh đá có hình lưỡi gươm lơ lửng trên vòm, còn chỗ khác là bãi chông mọc từ
nền đá trổ lên. Ở cuối hang, cụm hàm cá mập gồm một hang sâu hun hút được che
chắn bởi hàng chục cột thạch nhũ hình tháp cài thế răng lược bên ngoài, trông
như cuống họng loài thủy quái. Tuy hang không lớn nhưng ấn tượng nhất, bởi sự
hoàn hảo của từng tác phẩm tạo hình. Điều này ít nhiều gây cho khách vừa thích
thú qua các tuyệt tác thiên nhiên, vừa suy tư về một sức mạnh huyền bí nào đó
tạo nên khung cảnh ngoài sức tưởng tượng con người.
Từ nhiều năm qua, động Tam
Tòa cùng với thắng cảnh trong quần thể như động Tiên, đền Mẫu và di chỉ khảo cổ
thuộc nền "Văn hóa Hòa Bình", luôn hấp dẫn nhiều đối tượng khách có
nhu cầu du lịch, thám hiểm, khảo cổ, nghiên cứu. Hơn thế nữa đã trở thành truyền
thống, cứ đầu xuân khi chùa Tiên Phú Lão và chùa Hương - Hà Tây cùng mở hội là
dịp những đoàn khách nô nức qua lại, trước là hành hương tìm về đất Phật sau là
vui chân quá bước viếng cảnh.
Nên chăng ngành du lịch
địa phương cần đầu tư một số cơ sở hạ tầng, vừa để khai thác kinh doanh du lịch,
vừa đáp ứng nhu cầu thiết thực của khách khi có lòng đến với thắng cảnh. Một trạm
tiếp đón khách tươm tất, một nhà hàng phục vụ ăn uống, một con đường lên núi
được xây bậc thang tạo sự an toàn cho khách du lịch... là điều thật không quá
đáng so với tầm vóc danh thắng nổi tiếng vùng Tây Bắc.
Hoà Bình - Thuỷ điện Hoà Bình
Thủy điện Hòa Bình
18/06/2007, 10h59
Vị trí:
Nằm ở thành phố Hòa Bình, trên dòng sông Đà, tỉnh Hòa Bình.
Đặc điểm:
Là công trình thủy điện lớn nhất của Việt
Các
hạng mục công trình gồm có: đập đất đá, tràn xả lũ, hồ chứa nước, nhà máy thủy
điện ngầm trong lòng núi, âu thuyền và trạm phân phối điện ngoài trời. Theo thiết
kế, nhà máy có 8 tổ máy hoạt động, công suất mỗi tổ máy 240.000kw.Ngày nay hồ chứa nước của công
trình thủy điện này có bề mặt hàng trăm ki lô mét vuông, với sức chứa hàng tỷ
mét khối nước, đã trở thành một tuyến du lịch lòng hồ sông Đà rất hấp dẫn du
khách.
Cinet
Huế - Huế đẹp và thơ
Huế đẹp và thơ
|
|
Huế
là một vùng đất cổ. Vào thế kỷ 13 vùng đất thơ mộng này đã hòa nhập vào Đại Việt
bởi là “quà tặng” của vua Chiêm Thành khi cưới công chúa Huyền Trân nhà Trần.
Phong cảnh tươi đẹp, núi non tráng lệ, địa hình hiểm trở đã tạo cho Huế có một
vị trí đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Nơi đây đã được chúa Nguyễn Hoàng chọn
làm kinh đô của xứ Đàng Trong (1558), được vua Quang Trung chọn làm kinh đô của
triều đại Tây Sơn (1788-1802), vua Gia Long chọn làm kinh đô của triều Nguyễn
(1802-1945). Trong hơn 400 năm, Thừa Thiên - Huế nói chung và Huế nói riêng đã
là trung tâm chính trị, văn hóa của Nhà nước phong kiến Việt
Du
khách đã đến Huế không ai bỏ qua chương trình du thuyền trên sông Hương. Gọi là
sông Hương vì từ xa xưa, dòng sông này chảy qua những cánh rừng nhiều thảo mộc
có hương thơm, nên khi vào Huế, dòng sông đem theo hương thơm của cây cỏ thiên
nhiên. Với độ dài 80 km, sông Hương uốn lượn trong thành phố Huế như một sự sắp
đặt để làm say lòng du khách. Thuyền sẽ đưa du khách dạo ngang qua các cầu Dã
Viên, Phú Xuân, Trường Tiền; lên thăm lăng Minh Mạng, điện Hòn Chén, chùa Thiên
Mụ... rồi xuôi dòng về Thuận An tắm biển. Du khách nào muốn suy tư, xin mời ngược
dòng sông Hương lên rừng lăng Thiên Thọ mà nghe vi vút tiếng thông reo... Đêm về,
dưới ánh sáng trăng, mặt sông như được dát bạc, giọng hò man mác cất lên, du
khách sẽ được thưởng thức vị ngọt ngào của tiếng đàn, câu hát.
|
Cùng
với sông Hương, núi Ngự Bình là quà tặng vô giá thứ hai của tạo hóa, quyện vào
nhau tạo nên vẻ sơn thủy hữu tình của Huế. Người ta quen gọi Huế là xứ sở của sông
Hương - núi Ngự bởi từ lâu, ngọn núi xinh đẹp này cùng với sông Hương trong
xanh đã trở thành biểu tượng của thiên nhiên Huế. Bao thế hệ từng coi đây là chốn
thưởng ngoạn thiên nhiên kỳ thú. Vào những ngày đẹp trời, đứng trên đỉnh Ngự
Bình, có thể thu vào tầm mắt toàn cảnh thành phố với cung điện nguy nga, mái
chùa cổ kính và dòng sông Hương xanh biếc uốn lượn quanh co. Ngay trước tầm mắt
là các khu đồi, là rừng thông bát ngát tiếp nối một vùng đồng bằng rộng lớn của
các huyện Hương Thủy, Phú Vang, Hương Trà cỏ cây xanh rờn. Xa hơn là dãy Trường
Sơn trùng điệp một màu tím thẫm ẩn hiện trong những tầng mây bạc. Nhìn về phía
Đông là dải cát trắng mờ phía xa cửa Thuận An với màu xanh thăm thẳm của biển
Đông.
Cách
núi Ngự Bình vài km là đồi Vọng Cảnh đứng soi mình duyên dáng bên dòng sông
Hương. Từ đồi Vọng Cảnh có thể nhìn thấy những khu vườn cây ăn quả mướt xanh của
cau, nhãn, cam, quýt, thanh trà.. chen lẫn bóng thông, những mái nhà ngói xám của
đền chùa, lăng tẩm cổ kính, trầm mặc. Sông Hương như một dải lụa mềm uốn quanh
chân đồi. Có dịp đến đây vào buổi bình minh sương tan hay lúc hoàng hôn, chiều
tím, du khách mới hiểu hết và thấm thía vẻ đẹp nên thơ, nên họa của một ngọn đồi,
một khúc sông, một góc trời xứ Huế.
|
Đến
với Huế, du khách còn được thưởng thức một thú vui khi đến thăm làng vườn. Theo
quan niệm mang tính truyền thống của người dân xứ Huế, khi nói đến nhà là phải
nói đến vườn, hai hình ảnh gắn liền của một tác phẩm sống động, vừa có tác dụng
kinh tế vừa có giá trị thẩm mỹ. Ngày trước, dân xứ Huế thường dành một phần năm
đất vườn cho thú chơi hoa, chơi cảnh, nơi này khóm trúc, bụi hồng, nơi kia cành
mai, chậu cúc. Bốn phần năm đất còn lại là để trồng rau và cây ăn quả. Nghề làm
vườn ở đây ngoài sự cần cù, chịu khó còn phải có đôi bàn tay khéo léo, đạt tới
trình độ nghệ thuật để tỉa tót và lai tạo. Qua bao đời nay, Huế đã cống hiến
cho quê hương, đất nước những đặc sản ngon nổi tiếng như bưởi Thanh trà, quýt
Hương Cần, nhãn lồng Kim Long, cam Mỹ Lợi, có cả măng cụt, chôm chôm Nam bộ, hồng
Lạng Sơn, vải thiều Hải Dương...Vườn An Hiên nổi tiếng bởi sự đa dạng của các
loài hoa như lý, nhài, mẫu đơn, tường vi, đồng tiền, phong lan...Thấp thoáng
trong tán lá và hoa trái là mái nhà rường cổ kính với những bộ vì kèo chạm trổ
công phu, những bờ nóc, bờ quyết chắp đồ án rồng mây, một mái ngói cổ kính, một
lớp tường mờ rêu cùng với màu xanh hoa trái là bức tranh đẹp của nhà vườn xứ Huế,
là nơi để con người có thể thư giãn, hòa mình cùng thiên nhiên.
|
Là
vùng đất có tiềm năng du lịch nổi bật với quần thể các di tích văn hóa được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa nhân loại với trên 300 công trình kiến trúc,
bao gồm hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm của các vua triều Nguyễn, các
kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian, các chùa chiền, miếu mạo, phủ đệ, hệ
thống nhà vườn...vì thế du lịch Huế chiếm một vị trí quan trọng trong chiến lược
phát triển du lịch của cả nước và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Thừa Thiên - Huế.
(Cinet)
Huế - Sông Hương
Sông Hương
18/06/2007, 11h05
|
|
|
Vị
trí: Dòng sông thơ mộng chảy qua Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Đặc
điểm: Sông Hương đẹp từ nguồn, uốn lượn quanh co giữa núi rừng, đồi cây mang
theo những mùi vị hương thơm của thảo mộc rừng nhiệt đới.
Sông
Hương có hai ngọn nguồn. Nguồn tả trạch xuất phát từ dãy núi Trường Sơn chảy về
hướng tây bắc qua 55 ngọn thác hùng vĩ, rồi từ từ chảy qua ngã ba Bằng Lãng;
nguồn Hữu Trạch ngắn hơn sau khi vượt 14 ngọn thác hiểm trở và qua bến đò Tuần
thì đến ngã ba Bằng Lãng hợp dòng với Tả Trạch thành sông Hương thơ mộng. Sông
Hương dài 30km nếu chỉ kể từ Bằng Lãng đến cửa Thuận An, độ dốc của dòng nước
so với mặt biển không chênh lệch nhiều nên nước sông chảy chậm.
Sắc
nước sông Hương trở nên xanh hơn khi vượt qua chân núi Ngọc Trản - điện
Hòn Chén, tạo nên một lòng vực sâu thẳm.
Sông
Hương đẹp từ nguồn, uốn lượn quanh co giữa núi rừng, đồi cây mang theo những
mùi vị hương thơm của thảo mộc rừng nhiệt đới. Dòng sông chầm chậm lướt qua các
làng mạc xanh tươi, rợp bóng cây của Kim Long, Nguyệt Biều, Vĩ Dạ, Ðông Ba, Gia
Hội, Chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh, quyện theo mùi thơm của các loài hoa xứ Huế.
Dòng sông xanh trong vắt lung linh như ngọc bích dưới ánh mặt trời, những con
thuyền Huế xuôi ngược, dọc ngang với điệu hò man mác, trầm tư, sâu lắng giữa
đêm khuya. Ði chơi bằng thuyền để được ngắm cảnh Hương Giang thơ mộng, nghe những
điệu hò, dân ca xứ Huế lúc trời đêm thanh vắng là thú vui muôn thuở của bao lớp
du khách...Quang cảnh
đôi bờ sông, nào thành quách, phố xá, vườn cây, chùa tháp... bóng lồng mặt nước
phản chiếu lung linh làm cho dòng sông đã yêu kiều càng nên thơ, nên nhạc.
Nhiều người nghĩ rằng sở dĩ Huế có được cái êm đềm, dịu dàng, yên tĩnh phần lớn
là nhờ sông Hương, dòng sông xanh đã đem lại cho thành phố cái chất thơ trầm
lắng, cái trong sáng hài hoà toả ra từ vùng đất có chiều sâu văn hiến.
Cinet
Huế - Vườn Ngọc
Vườn Ngọc
|
Có lẽ chỉ có Hàn Mạc Tử mới
đủ ngôn từ để tạo nên một bức tranh tuyệt mỹ về mảnh vườn xứ Huế bằng một tứ
thơ ngọt ngào, gợi tình mà chân sát đến vậy. Phải! Vườn Huế là ngọc, là thơ,
là khoảng xanh diệu vợi mà người Huế tạo ra để cất giấu những kỳ ẩn của mình.
Ai đã từng vào
Từ
trên cao nhìn xuống, Huế
Vườn
cây xứ Huế được biết đến không phải vì những vườn hoa muôn màu, muôn vẻ
Vườn
cây có một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Huế. Phần lớn
các gia đình, dù ở nội đô hay ngoại thành cũng đều cố gắng tạo nên một mảnh vườn
riêng nho nhỏ. Lớn thì trồng cây ăn trái, nhỏ thì trồng hoa, tỉa cỏ, không có đất
thì tạo các vườn treo với những chậu cảnh, giò lan - Những Bonsai
Vườn Huế còn là bản sao cốt cách, tấm gương
phản chiếu tầm nghĩ, nếp sống, sự sáng tạo và tài năng của con người. Nhìn
cách thiết trí, kiến tạo và tuyển chọn các loài thảo mộc, hoa trái của chủ vườn,
ta có thể nắm bắt tính cách, ý tưởng, đánh giá được năng khiếu của họ. Người
làm vườn gắn giá trị kinh tế và giá trị nghệ thuật vào với nhau. Bởi vậy, mảnh
vườn Huế mới trở thành một tạo phẩm tuyệt vời và có hiệu quả.
Có một thuật ngữ được khai
sinh để chỉ mối liên quan giữa kiến trúc và mảnh vườn xứ Huế, thuật ngữ nhà vườn.
Mọi kiến trúc ở Huế, từ nhà cửa trong dân gian, qua đình chùa trong kiến trúc
tôn giáo, đến cung điện, lăng tẩm trong kiến trúc cung đình đều gắn bó với yếu
tố vườn. Kiến trúc Huế được coi là mẫu mực của lối kiến trúc "cảnh vật
hóa". Những nghệ nhân xưa và nay coi vườn cây như yếu tố trung hòa giữa
âm và dương, giữa cái luôn luôn thay đổi và cái bất biến, giữa đất và trời, giữa
tạo hóa với con người. Vườn cây là mảng màu xanh xoa dịu bớt cái rực rỡ của
kiến trúc, là nét bút của tạo hóa có tác
dụng uốn mềm những ấn tượng kiến trúc gai góc, sắc cạnh vạch ra trên nền trời.
Vì những lẽ đó, vườn Huế đã trở thành một yếu tố không thể thiếu được trong đời
sống và tâm hồn của người dân Huế.
|
Sau bao dặm trường
luồn lách giữa những cánh rừng già, trăn trở chuyền mình qua bao ghềnh thác,
hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch gặp nhau ở một địa danh có tên gọi hết sứ lạ lùng:
Ngã ba Bằng Lãng, tạo thành con sông Hương thơ mộng dùng dằng chảy vào lòng
thành phố. Đất mẹ bao dung đã gởi gắm phù sa theo dòng nước, tạo cho Huế hai
thềm đất trù phú, tốt tươi xuôi dài tới biển cả. Vườn cây xứ Huế được nuôi nấng
từ lớp phù sa đó. Dọc theo bờ Sông Hương, biết bao thôn làng với những mảnh vườn
nặng trĩu trái ngọt, ngan ngát hoa thơm. Đó là những khu vườn đầy mít, chè, thơm của làng
Tuần, những thềm đất trắng muốt hoa huệ, rợp đỏ dâm bụt và lấp lánh ánh vàng tươi
của hoa đồng tiền... trên bãi bồi Nguyệt Biêu... Chiếc du thuyền xinh xắn sẽ đưa
khách xuôi dòng Hương, đến cầu Xước Dũ, rẽ vào sông Bạch Yến. Sau chừng mươi
phút quanh co, uốn lượn qua những bãi bồi xanh rì bắp đậu, du khách sẽ cập bến
chùa Huyền Không, một thế giới riêng của hoa quả và thiền. Chùa Huyền Không được
biết đến không chỉ vì nó là một di tích tôn giáo. So với hàng trăm ngôi chùa
khác ở Huế, Huyền Không ở vào một vị thế rất khiêm tốn. Một chính điện nhỏ để
thờ Phật Tổ, một mẫu đất được tôn tộc Nguyễn Đăng dâng tặng làm vườn
chùa. Chùa nhỏ nhưng lại nổi tiếng bởi mảnh vườn. Vườn chùa gồm năm khu vực.
Vườn hồng có hàng trăm loại hồng ghép đủ tên gọi và chủng loại. Tiếp theo là vườn
cây ăn quả. Rồi đến Thanh Tâm Viên, nơi có chiếc cầu tre nhỏ mang tên Giải Trần
Kiều bắc qua Hàm Nguyệt rì đưa du khách đến nghỉ mát ở Y Thảo Đình. Bước vào
đây, người ta thấy hồn mình trở nên nhẹ nhàng thanh thản. Phía bên kia là Hứa
Nhất Thiên với Yên Hà Các có hơn 3000 đầu sách ngự giữa những chậu cây cảnh và
những hòn non bộ. Song, nổi tiếng nhất trong vườn chùa, có lẽ chính là những
giò phong lan ở Phương Thảo Địa. Ở đây có khoảng 200 loại lan quý bốn mùa
nở hoa làm du khách phải ngẩn ngơ. Lan đẹp trong từng cánh hoa phiến lá. Tất cả
đều được gây tạo bởi mồ hôi, công sức và sự đam mê của các thiền sư nơi đây.
Có một vùng vốn được
coi là biểu tượng rực rỡ nhất của nghệ thuật nhà vườn Huế. Đó là Kim Long. Những
khu vườn ở làng Kim Long là hiện thân mẫu mực của vườn cây xứ Huế. Mảnh đất
này là nơi họp mặt bao hoa thơm, trái ngọt từ Nam chí
Bắc. Ở đây có cả măng cục, chôm chôm... Nam Bộ, có cả hồng Lạng Sơn, vải
thiều Hưng Yên, cả hoa mai, hoa đào... Mỗi gia đình đều có một khu vườn biệt
lập. Vườn An Hiên nổi tiếng bởi sự đa dạng và tổng hợp của các loài hoa cỏ
trên cả nước. Ta có thể gặp trong khu vườn này gốc hồng già Tiên Điền... do cụ
Nghệ Mai, cháu nội đại thi hào Nguyễn Du tặng gia chủ,...
hoặc măng cụt Nam Bộ, nhãn lồng xứ Bắc. Vườn An Hiên hội đủ các loài hoa. Những
loài hoa dân dã như lý, nhài, mẫu đơn... được trồng cạnh những loài hoa quý
phái như tường vi, đồng tiền, phong lan... Đi dạo trong vườn, đôi khi du
khách bất chợp gặp những đóa hoa rừng như sim, mua... khoe sắc cùng hải đường,
trà mi. Thấp thoáng trong tán lá và hoa trái là mái nhà rường cổ kính đang
"trơ gan cùng tuế nguyệt". Phải chăng chỉ có lối kiến trúc nhà rường
cổ với những bộ vì kèo chạm trổ công phu, những bờ nóc, bờ quyết chắp đồ án rồng
mây là mô hình thích hợp nhất với mảnh vườn xứ Huế! Một mái
ngói cổ kính, một lớp tường mờ rêu cùng với màu xanh của lá muôn sắc của hoa
trái là yếu tố mà con người và thiên nhiên đã khắc họa nên trong bức tranh tuyệt
mỹ của nghệ thuật nhà vườn xứ Huế.
Khánh Hoà - Bãi biển Đại Lãnh
Bãi biển Đại Lãnh
18/06/2007, 11h10
Vị trí:
Bãi biển Đại Lãnh thuộc địa phận huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, nằm bên quốc lộ
1A, cách Nha Trang khoảng 80km về phía bắc.
Ðặc điểm:
Đại Lãnh là một trong những bãi biển đẹp nhất miền Trung với dải cát dài trắng
mịn và những hàng phi lao chạy dài.
Từ
xưa, Đại Lãnh đã được liệt vào những danh lam thắng cảnh của đất Việt. Vua nhà
Nguyễn
đã từng cho khắc danh thắng Đại Lãnh vào một trong cửu đỉnh bày trước sân Thế
Miếu ở Huế.
Biển
Đại Lãnh xinh đẹp, hiền hoà với làn nước trong xanh, trải dài cát trắng... chứa
đựng đầy tiềm năng văn hoá, du lịch luôn thu hút du khách 4 phương.Từ bãi biển Đại Lãnh, du khách có
thể đi thăm quan làng chài ở Đầm Môn.
Cinet
Khánh Hoà - Bán đảo Đầm Môn
Bán đảo Đầm Môn
18/06/2007, 11h14
Vị trí:
Đầm Môn nằm trong vịnh Văn Phong, thuộc xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh
Khánh Hòa, cách thành phố Nha Trang khoảng 80km theo quốc lộ 1A về phía bắc
(cách 45km theo đường biển).
Ðặc điểm:
Bán đảo Đầm Môn hấp dẫn bởi những cồn cát chạy dài, khoảng 20 đảo lớn nhỏ có rừng
nguyên sinh, những điều lạ, độc đáo ở làng chài Đầm Môn...
Bán
đảo Đầm Môn có diện tích tự nhiên 128km², là một trong những điểm du lịch mà Tổ
chức Du lịch thế giới đã tiến hành khảo sát và đánh giá rất cao. Ở đây có đầy đủ
mọi điều kiện tự nhiên tối ưu cho sự phát triển du lịch sinh thái: khí hậu, bờ
biển, rừng núi, cảnh quan, môi trường sinh thái, cảng biển, nguồn cung cấp hải
sản... Và tất cả hầu như còn nguyên vẹn.
Tháng
6/2002, một con đường được làm dài 18,5km bắt đầu từ dưới chân đèo Cổ Mã chạy
suốt đến Đầm Môn, mở đầu cho việc phát triển khu du lịch vịnh Văn Phong. Đi
trên con đường mới mở này, xuyên suốt vùng bán đảo, du khách có thể nhìn thấy
những ngôi nhà như bị chìm trong cát, những cồn cát mênh mông, trắng xóa chạy
dài, chung quanh không một bóng nhà, một bóng người, khiến có cảm giác như con
đường đang băng qua một sa mạc rộng lớn. Hết khu vực cồn cát sẽ hiện ra con đường
chạy dọc ven biển kéo dài từ Đầm Môn đến tận Đại Lãnh. Và điểm cuối cùng của
hành trình sẽ là một làng chài nhỏ nằm trong vịnh, kín đáo, quanh năm xanh rợp
bóng dừa: Đầm Môn. Đầm Môn có ba thôn: Đầm Môn Hạ, Đầm Môn Thượng và Xuân Đừng.Ở làng chài nhỏ này du khách sẽ
thấy người ta không mang dép và có thể ngồi hay nằm dài trên cát bất kể nơi
nào. Đầm Môn Thượng có đồi cát cao, nơi du khách có thể leo lên ngắm biển xanh
thẳm ngoài xa. Ở thôn Xuân Đừng, chỉ cần đào một gang tay sẽ tìm thấy nước ngọt
ngay cạnh bờ biển. Tại đây có một làng người dân tộc thiểu số có tên là Đàng Hạ,
nay dù không còn tên trên bản đồ phân bố dân cư Việt
Tham quan làng Đầm Môn xong, du khách bắt đầu đi thuyền thám hiểm khoảng 20 hòn
đảo lớn nhỏ, trên đảo là những khu rừng nguyên sinh. Sau vùng núi, du khách bắt
đầu thám hiểm dưới nước. Văn Phong là khu vực có hệ sinh thái san hô phát triển
khá điển hình của Việt
Buổi tối du khách có thể đi câu mực hay sinh hoạt đốt lửa trại ngay trên bờ biển,
và thật tuyệt vời khi có thể mua ngay những con cá mú nuôi trong lồng hay những
ký tôm hùm thật to để thưởng thức vị ngọt của hải sản tươi vừa bắt lên từ biển
khơi...
Cinet
Khánh Hoà - Nha Trang
Nha Trang - Vịnh biển
đẹp của thế giới
|
Câu lạc bộ các vịnh đẹp nhất thế giới được thành lập vào tháng 3-1997 tại Berlin (Đức) với mục đích bảo tồn sinh thái biển, phát triển các loại hình du lịch ở các vùng vịnh một cách bền vững, lâu dài. Tại Hội nghị lần thứ hai của CLB được tổ chức ở Tadousac (Quebec, Canada) từ 1-6 đến 8-6-2003, vịnh Nha Trang đã được kết nạp làm thành viên thứ 29 của thế giới, thứ 2 của châu Á (sau vịnh Hạ Long) trong câu lạc bộ này.
Đầu
thế kỷ trước, thành phố Nha Trang ngày nay còn là một bãi biển hoang sơ với một
làng chài vài mươi nóc nhà tranh ở xóm Cồn. Chỉ có duy nhất một ngôi nhà xây 2
tầng lầu mầu trắng là nhà làm việc của Bác sĩ Alexandre Yersin (lầu ông Năm).
Người đến đây bằng đường biển sẽ thấy ngôi nhà trắng trước tiên, Nha Trang
chính là "nhà trắng" được gọi chệch đi.
Tượng Phật
chùa Long Sơn
|
Đó là cách kiến giải về xuất xứ
tên gọi Nha Trang của những người ngưỡng mộ A. Yersin - một công dân đặc biệt của
thành phố. Còn theo các nhà nghiên cứu xưa kia hai bên bờ sông Cái đổ ra cửa biển
Cù Huân (Cửa Lớn) đầy lau lách rậm rạp, nên sông được gọi là sông Lau (tiếng
Chăm là yjatran hay Ea Tran). Lâu dần nó được gọi chệch thành Nha Trang. Tên
sông sau thành tên đất, rồi được dùng cho cả vịnh biển ôm ấp và làm đẹp cho
vùng đất.
Vịnh Nha
Trang
|
Được
che chắn bởi 19 đảo lớn nhỏ, vịnh Nha Trang rộng chừng 500km2 khá kín gió,
không có sóng lớn. Cửa sông Cái đổ ra giữa hai bãi biển hình trăng khuyết, cát
mịn mát trải dài hàng 6, 7 cây số. Dưới ánh nắng mặt trời nhiệt đới, màu xanh của
những triền núi nhấp nhô trên bờ, của các hòn đảo hoà cùng mầu biển biếc, như
tôn thêm vẻ quyến rũ của những dải cát vàng dạt dào sóng trắng. Trong vịnh Nha
Trang có gần mười đảo yến, hàng năm việc khai thác yến sào mang về hàng triệu
USD cho tỉnh Khánh Hòa. Dưới mặt vịnh Nha Trang lại có một thế giới kỳ thú
khác, đó là thế giới của 350 loài san hô, 190 loài cá, các loài nhuyễn thể,
giáp xác, cỏ biển... Tháng 12-2000, dự án Khu bảo tồn biển Hòn Mun trong vịnh
Nha Trang - khu bảo tồn biển đầu tiên của nước ta đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt.
Tháp Bà
Ponagar - Hòn Chồng
|
Đến
Nha Trang, nơi du khách không thể không ghé qua là Tháp Bà Ponagar ở phía Bắc cửa
sông Cái, một di tích kiến trúc Chăm tiêu biểu, nơi thờ Thiên Y Ana (Mẹ Xứ Sở).
Cách Tháp Bà chừng dăm trăm mét là Hòn Chồng, gồm 2 khóm đá lớn hình thù kỳ dị
, Hòn Chồng là khóm nằm trên bờ, Hòn Vợ là khóm dưới biển. Truyền thuyết kể rằng
xưa có vị khổng lồ qua đây ngoạn cảnh, gặp lúc các nàng tiên đang tắm. Mải ngắm,
vô tình trượt chân ngã, ông vội bám tay vào núi làm cả mảng núi sụp đổ thành
Hòn Chồng ngày nay. Trên một khối đá lớn ở đây còn in dấu một bàn tay khổng lồ,
đủ cả năm ngón.
Đi về phía Nam theo đường Trần Phú, du khách có thể
thăm biệt thự Bảo Đại, Viện Hải dương học - nơi trưng bày hàng ngàn loài sinh vật
biển còn sống hoặc ở dạng tiêu bản. Bến cảng Cầu Đá là nơi xuất phát cho những
tuyến du lịch biển đảo: Hòn Mun, Hòn Miễu, Hòn Tằm, Thủy cung Trí Nguyên... Mỗi
nơi đều có những bãi tắm rất sạch, nước trong sóng êm, ai thích cảm giác mạnh
có thể lặn biển ngắm san hô, kéo dù, cưỡi mô tô nước... Ở Làng Chài (Hòn Miễu)
có nhiều lồng bè cá mú, tôm hùm, mực… cho khách tự lựa chọn từng con và nhà
hàng sẽ chế biến theo yêu cầu. Một tuor du lịch mới trên vịnh Nha Trang được
nhiều người biết đến là Đảo Yến - Hòn Nội. Theo tuor này, sau chừng 90 phút du
khách sẽ được tàu đưa từ cảng Cầu Đá ra đến Hòn Nội, lên Vọng hải đài trên đỉnh
Du Ha ngắm cảnh, đi ngắm san hô và sinh vật biển bằng tàu đáy kính.
|
Đặc
biệt du khách sẽ được xem phim giới thiệu về nghề khai thác yến sào và tham
quan hang yến ở Hòn Sam, tận mắt thấy tổ yến Nha Trang như một cô gái vừa đẹp,
vừa có duyên, vừa nhìn đã thích, gặp rồi càng mến, càng quen càng thấy thêm những
điều mới mẻ có sức thu hút lạ. Phải chăng vì vậy, A.Yersin đã gắn bó với Nha
Trang hơn 50 năm, trước khi nhắm mắt ông dặn dò đồng sự “hãy giữ tôi ở lại với
Nha Trang, đừng cho ai lấy tôi đi”.
(Cinet)
Kiên Giang - Mũi Nai
Mũi Nai - Kiên Giang
|
Suốt chiều dài miền
Về
cái tên gọi Mũi Nai
Từ
thuở hồng hoang, vùng đất này mênh mông nước và trời. Có một chú nai con thuộc
dòng dõi nai thần hay ra uống nước. Rồi một ngày, mải say cảnh đẹp của biển trời
Hà Tiên, chú không về kịp giờ đóng cửa rừng. Buồn bã, chú nai quay lại bờ biển,
thơ thẩn đi dạo. Nhưng biển đêm không hề thơ mộng êm ả vào mùa gió chướng. Gió
nổi, sóng xô ầm ầm. Chú nai con gục ngã giữa biển. Ngày nay, khi tản bộ lên đỉnh
cao của phía đối diện, bạn sẽ được nhìn ngắm toàn cảnh bãi biển. Ngọn núi phía
xa xa vẫn mang hình chú nai con đang uống nước.
Điểm
độc đáo đầu tiên và dễ nhận ra nhất của bãi Mũi Nai là có điểm du lịch nổi tiếng
khác xung quanh. Sau khi đắm mình trong làn nước mát, say nồng với làn gió biển.
Nếu đã cảm thấy “ đã” với nước biển, cát và gió. Thì du khách lại có thể tha hồ
khám phá những danh thắng nằm quanh quất đâu đấy. Phía bên này là Kim Cương động
(Thạch Động) huyền ảo trốn trong mây với tiếng đàn Thạch Sanh văng vẳng. Kia là
Hòn Chông đá dựng, uy nghi huyền sử Hòn Phụ Tử đánh cá sấu, lung linh hệ thống
thạch nhũ có đủ hình đủ dạng. Chùa Hang cổ kính, tan tiếng chuông trong chiều lộng
gió… Quá nhiều điều hấp dẫn chờ đón du khách khám phá sau khi tắm biển thỏa
thích.
Cát
biển Mũi Nai màu nâu sậm, khi những làn sóng chồm lên, quyện vào cát, một màu
đen nhánh hiện lên thật lạ lùng. Theo người dân địa phương, màu đen này là do
cát biển nơi đây chứa rất nhiều bùn. Mà bùn lại là một chất dưỡng da tuyệt hảo.
Một ngày nằm đắp cát trên biển, chẳng những giúp có một làn da rám nắng cực kỳ
hợp với mốt mà lại được “tắm bùn” miễn phí, tha hồ sảng khoái.
Bao
nhiêu năm nay, Mũi Nai không phải chứng kiến sự bi thương do biển mang đến. Vì
biển nơi đây thoai thoải và khá nông, rất an toàn để tắm. Đội ngũ bảo vệ cũng
không cho phép những người nồng nặc mùi men rượu xuống tắm. Thêm vào đó, khu du
lịch Mũi Nai đã xây dựng một công viên nước mini ngay sát biển dành cho trẻ em.
Các bé sẽ tha hồ nghịch sóng, chơi cát, trượt nước mà phụ huynh không phải lo ngại
gì cả.
Mũi Nai luôn tự hào về vấn đề an ninh. Các gánh hàng
rong, vé số hay những người ăn mày không được phép xuất hiện trong khuôn viên
bãi tắm. Hành lý, tư trang của khách luôn được đặt trong tình trạng an toàn. Đó
là yếu tố quan trọng giúp du khách yên tâm khi tắm biển.
Cạnh
bãi tắm là một cái chợ nhỏ, bán đủ sản vật biển khơi. Chúng được giữ tươi sống
tuyệt đối cho đến khi khách hàng chọn mua. Nhưng thông thường, du khách thích
chọn cách ngồi… chờ. Chờ đến chiều, các ghe đánh cá nho nhỏ trở về. Cá, mực,
tôm, sò không nhiều lắm, nhưng rất rẻ và rất ngon. Dải đất này được sự ưu đãi đặc
biệt của thiên nhiên theo một cách nào đó, nên có những dòng hải sản di cư đi
ngang qua. Không những vậy, Mũi Nai còn sở hữu món nước thốt nốt đặc trưng của
vùng. Ngọt và thơm đến tận đáy lòng.
Hoang
sơ biển vắng - một sự thư giãn tuyệt vời
Mũi
Nai có một đặc trưng là lạ: người địa phương "nhường" hẳn bãi tắm này
cho du khách. Thêm vào đó, những người đến Hà Tiên thường không phải để tắm biển.
Chính vì thế, dù thật nên thơ, Mũi Nai vẫn vắng, biển lại rất hoang sơ. Bàn tay
con người cải tạo dường như không lưu lại nhiều dấu vết.
Vắng
và tự nhiên, điều này trở thành một nét riêng quyến rũ những ai muốn về với
thiên nhiên, đến với Mũi Nai. Nhưng muốn tận hưởng cảm giác lãng mạn của biển,
du khách nên chờ đến buổi chiều. Cứ ngồi xoải chân trên cát, im lặng nghe tiếng
lao xao của gió vờn trên sóng, của bầy hải âu chao lượn cuối trời mới thấy hết
nét thi vị của biển. Rồi hoàng hôn xuống dần, đỏ ối một vùng trời.
Có
ba sự lựa chọn cho du khách lúc này: Một là tiếp tục ngồi lặng yên, nếu là người
lãng mạn. Hai là ôm thật sát người yêu vào lòng nếu đang ngồi cạnh nhau. Ba là
tìm một cái võng đu đưa. Sẽ thật tuyệt vời!!!
Thưởng
thức trái cây miền Tây
Thông
thường, vùng biển thì không giàu có về các loại cây ăn trái. Hà Tiên cũng thế.
Nhưng bù lại, “hàng xóm” của vùng đất này lại là một vùng trù phú hạt ngàn cây
trái. Mùa nào thức ấy, Mũi Nai tuyển chọn cho những vị khách quý của mình các
loại trái cây tuyệt nhất có thể có. Bạn có thế chọn hoa quả trong những chiếc
xe đẩy ngay khu chợ nhỏ, hoặc gọi các loại trái cây đã được cắt gọt và ướp lạnh
sẵn để dùng ngay. Một lời khuyên chân tình cho những ai “mê” sầu riêng: “Hãy ăn
bằng bàn tay vừa nghịch nước biển xong”. Một chút mằn mặn của muối biển xoa nhẹ
vào cái ngọt, cái bùi của thứ trái đầy gai này sẽ tạo nên một hương vị là lạ mà
có lẽ bạn chưa thưởng thức bao giờ.
Những
kỷ niệm đẹp được mang về
|
Vùng biển Hà Tiên sở hữu một món
quà mà ai qua cũng phải nhớ: đồi mồi. Một chiếc lược đồi mồi nho nhỏ cẩn hai
bông hoa cúc bằng xà cừ óng ánh, một cây thoa cong cong hay đơn giản là một chiếc
nhẫn bé tẹo, bạn sẽ gây bất ngờ cho những người ở nhà với những món quà xinh
xinh độc đáo như vậy.
Chưa
hết, khi quay về thành phố, du khách còn có quá nhiều thứ để nhớ về Mũi Nai. Nhớ
con đường nhỏ liêu xiêu vòng cung dẫn lên đồi phía cuối bãi để ngắm hình dáng
con nai, nhớ nụ cười chân chất và đôn hậu của những người dân sống tại nơi đây,
nhớ giọt nước thốt nốt thảo thơm, ngày uống mà đêm về vẫn còn ngọt... Và hơn hết,
du khách sẽ chẳng thể quên những chiều đón hoàng hôn, những sớm tinh mơ đón
bình minh trên biển vắng. Hãy một lần đến Mũi Nai trong những ngày hè!
(Cinet T.H)
Lạng Sơn - Động Nhị Thanh
Động Nhị Thanh
18/06/2007, 14h12
Vị trí:
Nằm ở thành phố Lạng Sơn, gần động Tam Thanh
Đặc điểm:
Là một hang đá tự nhiên từ cửa trước ra cửa sau dài hơn 500m, với nhiều cảnh đẹp
kỳ vĩ.
Động Nhị Thanh gắn liền với danh
nhân Ngô Thì Sỹ ông là người phát hiện ra động Nhị Thanh và cho tu sửa tôn tạo
thành nơi du ngoạn vào tháng 5/1779. Ðộng Nhị Thanh khá rộng, có nhiều ngóc
ngách, nhiều nhũ đá rơi xuống muôn hình vạn dạng. Từ cửa động chính nhìn lên là
ngôi chùa Tam Giác thờ cả Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca. Trong động có tượng
truyền thần Ngô Thì Sĩ tạc vào vách đá và trên vách động còn ghi nhiều bài ký
phú của ông và các danh nhân khác.
Cinet
Lạng Sơn - Thẩm Khuyên
Thẩm khuyên
"Ai về quê em Bình
Gia yêu mến, có rừng núi cao, đất hồi thơm, gỗ chè nhiều". Lời hát thiết
tha, khiêm nhường và lắng sâu trong lòng những người con của Bình Gia (Lạng
Sơn) như vẫy gọi, mời chào chúng tôi và du khách đến với Bình Gia, một trong
những xứ sở của hoa hồi, bốn mùa quả ngọt hoa thơm, ngắm cảnh đẹp thiên nhiên của
một vùng núi cao, mây trắng sớm chiều che phủ những nếp nhà sàn khói lam vương
vấn mỗi buổi hoàng hôn, tạo nên vẻ đẹp kỳ ảo nên thơ của vùng đồng bào dân tộc
Tày, Nùng, Dao.
Hai
di tích hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai nằm cách quốc lộ Lạng Sơn - Thái Nguyên gần
100 mét. Trong lần khai quật năm 1965, các nhà khảo cổ đã thu được nhiều hóa thạch
quí giá gồm răng đười ươi, răng của gấu tre, voi, khỉ đuôi dài và răng của
người vượn khổng lồ mang tính chất đặc nguyên thủy. Năm 1993, đoàn nghiên cứu cổ
sinh Việt - Mỹ - Ôx-trây-li-a tiến hành khảo sát thu được một số mẫu trầm tích
và hóa thạch, khẳng định hang Thẩm Khuyên có niên đại cách đây 250 nghìn năm.
Các di tích này là một tài liệu vô cùng quí báu cho nền khoa học thế giới, cần
được nghiên cứu khám phá tiếp. Ở hang Thẩm Hai, các nhà khảo cổ Việt nam, CHLB
Đức đã tìm thấy răng hàm trên của người cổ và nhiều hóa thạch khác. Trong tương
lai sẽ cung cấp nhiều thông tin mới làm bằng chứng cho việc nghiên cứu vấn đề
nơi sinh của loài người.
Cách Thẩm Khuyên, Thẩm Hai khoảng 3 km là hang Kéo Lèng nằm trên dãy núi Nà Gọi.Ở
đây các nhà khảo cổ trong nước cũng đã tìm thấy răng gấu tre, răng hàm, hộp sọ,
xương sống của người cổ cách đây 30 nghìn năm. Những hóa thạch về người và động
vật cổ ở ba hang động nói trên góp phần minh chứng rằng, ngay từ thời đồ đá xa
xưa, ở miền núi phía bắc Việt Nam đã có người vượn sinh sống. Bình Gia (Lạng
Sơn) là một trong những cái nôi của loài người. Tháng 12-1993, Bộ Văn hóa -
Thông tin đã quyết định cấp bằng công nhận ba di tích hang Thẩm Khuyên, Thẩm
Hai, Kéo Lèng là di tích khảo cổ học loại đặc biệt quan trọng. Ngoài giá trị
khoa học khảo cổ, ba di tích này còn có giá trị danh thắng. Đến thăm ba di tích
này, du khách
Đến
Bình Gia, du khách còn được biết hàng loạt di tích lịch sử cách mạng và được
nghe các truyền thuyết về hội đá lửa, với cây đa bến đò Văn Mịch, truyền thuyết
về những ngôi đền, chùa, đình, làng và các lễ hội dân gian đậm đà sắc thái dân
tộc của người Tày, Nùng, Dao. Hồ Phai Danh nằm giữa các dãy núi có diện tích mặt
nước 31 mẫu, dung tích 1,2 tỉ m3 nước phục vụ tưới nước cho các cánh đồng lúa
quanh vùng, chung quanh hồ là những rừng hồi, chè xanh thắm. Giữa hồ là một đảo
nổi, tạo nên vẻ đẹp tự nhiên vốn có. Rồi khu rừng đặc dụng Lân Luông rộng hơn
400 ha có nhiều loại thú quí hiếm
Nhưng
các di tích lịch sử, văn hóa, thắng cảnh này của Bình Gia như bị lãng quên,
khi mà đường đi lại còn khó khăn, chưa có sự đầu tư, quản lý của các ngành chức
năng của Huyện, Tỉnh và Trung ương. Để Bình Gia phát triển kinh tế - xã hội du
lịch, rất cần sự quan tâm đầu tư, giúp đỡ của các ngành ở Tỉnh và Trung ương
về cơ sở hạ tầng, đồng thời có biện pháp duy trì, bảo quản các di tích, danh
lam này và giữ gìn, mở rộng các điệu hát lượn, hát sli, then của người Tày,
Nùng, Dao trong các lễ hội và phiên chợ của đồng bào.
Lào Cai - Núi Hàm Rồng
Núi Hàm Rồng
|
Núi
Hàm Rồng nằm trong dãy núi Hoàng Liên Sơn hùng vĩ, thuộc huyện Sa Pa, tỉnh Lào
Cai, cách thành phố Lào Cai 33km. Đây là mỏm đá vươn cao tựa đầu rồng. Theo
tương truyền, thủa hồng hoang, có đôi rồng đang mải mê quấn quýt bên nhau trong
khi cơn hồng thuỷ đang ào ạt dâng sóng mà vẫn không hay. Đến khi choàng tỉnh, hốt
hoảng rời nhau, rồi quẫy mình lên, nhưng không kịp. Tức thì mỗi con rời ra một
nơi. Đến bây giờ rồng nàng tuy hoá đá, nhưng bản năng sinh tồn còn mãnh liệt vẫn
cố ngước nhìn theo rồng chàng bên phía Tây Hoàng Liên.
Khi
đến đó, du khách chống tay lên đầu gối hoặc chống cây gậy trúc leo từng bậc, chỉ
một lát thôi là tới vườn lan trăm hình vạn sắc. Liên tiếp, trước mắt là một
bình nguyên thu nhỏ rực màu hoa đào, hoa cỏ giữa tiết xuân. Đi nữa là rừng đá với
cảm giác như lạc vào nơi bồng lai tiên cảnh, mà người xưa đã khéo tưởng tượng
đó là những móng vuốt, lông vây của rồng. Trong cái hốc nơi vách đá kia như
đang ẩn náu điều gì bí ẩn, bất chợt hiện ra qua ý tưởng của mỗi người. Lần theo
vách đá là đường lên cổng trời một và hai, bạn đứng trên mỏm đá ngất ngây trong
cảm giác bay lượn mà thoả mắt nhìn xuống toàn cảnh thành phố trong sương. Nơi
đây trời đất gặp gỡ, kia là “chàng mây” không giấu giấc mộng với “nàng đá”, dưới
ánh sáng mờ ảo lung linh. Tới đây không những được tận hưởng cảnh sắc của đất
trời, mà còn thưởng thức không khí trong lành của khí trời Sa Pa. Thế là bao ưu
tư, phiền muộn trong lòng bỗng tan biến. Khi ngước lên, du khách sẽ thấy “nàng
rồng” như còn hối tiếc điều gì chưa hoàn tất của một thời sung sức. Nếu muốn
thoả trí tò mò thì hãy leo lên thì thầm to nhỏ với rồng đá.
Ai
đến
(Cinet)
Lào Cai - Đỉnh Phan Xi Păng
Đỉnh Phan Xi Păng: nóc
nhà Việt Nam
|
Ngọn Phanxipang hùng vĩ có lẽ là một địa điểm mà ai
có “máu” du lịch mạo hiểm cũng mong muốn được đặt chân đến, được chạm tay vào
khối kim loại hình kim tự tháp trên đỉnh - vị trí cách mặt nước biển 3143m.
600 triệu năm về trước, khắp vùng Tây Bắc Việt
|
|
Khách tham quan đỉnh Phan Xi Păng.
|
Có những bộ rễ chằng chịt phủ kín
mặt đất. |
Dưới
chân núi là những cây gạo, cây mít, cây cơi với mật độ khá dầy tạo nên những địa
danh Cốc Lếu (Cốc Gạo), Cốc San (Cốc Mít)… Từ đây đến độ cao 700m là vành đai
nhiệt đới có những vạt rừng nguyên sinh rậm rạp, dây leo chằng chịt. Từ 700m trở
lên là tầng cây hạt trần như cây pơmu, có những cây ba, bốn người ôm không xuể,
cao đến 50-60m, tuổi đời tới vài trăm năm. Pơ mu (ngọc am) được mệnh danh là mỏ
vàng của Lào Cai. Bên cạnh Pơ mu, còn nhiều loại gỗ quý hiếm khác như Lãnh sam,
Thiết sam, Liễu sam, Kim sam, Thông đỏ, Hoàng đàn… Các cây lá Kim ken đầy với
cây gỗ nhỏ trụi, thân luôn sũng nước vì càng lên núi cao thì càng hay mưa, có
năm Phan Xi Păng mưa suốt một tháng liền. Xen lẫn với rừng lá Kim, là các loại
hoa Đỗ quyên, Phong lan, Hoàng anh rực rỡ. Hầu như bốn mùa, cả Sa Pa đều ngập
tràn trong muôn sắc hoa màu hoa Lay-ơn, Thược dược, Bôgônha, Estcola… là những
thứ hoa dưới đồng bằng hiếm có. Riêng hoa Đỗ quyên có tới bốn chi với hai chục
loài khác nhau. Có nơi Đỗ quyên chi chít, rực rỡ cả núi rừng. Ở nước ta có 111
chi Phong lan và 643 loài thì riêng Phan Xi Păng có tới 330 loài.
Lên
cao 2400m, gió mây quyện hoà với cây rừng, có lúc xòe tay ta tưởng đã nắm được
mây. Từ độ cao 2800m, mây mù bỗng tan biến, bầu trời quang đãng trong xanh. Chỉ
có gió thổi làm cho thảm thực vật phải dán mình vào đá. Phủ kín mặt đất là trúc
lùn, những bụi trúc thấp khoảng 25-30cm, cả thân cây trơ trụi, phần ngọn có một
chút lá phất phơ, nên loài trúc này được gọi là trúc phất trần. Xen kẽ là một số
cây thuộc họ cói, họ hoa hồng, họ hoàng liên… Đất xương xẩu trơ đá, gió thổi
không ngớt, khí hậu lạnh giá, nhưng những cây hoàng liên vẫn vươn lên miệt mài.
Trên
điểm cao 2963m có cột mốc đánh dấu năm 1905 người Pháp đã tới chinh phục đỉnh
cao. Lên cao nữa là một khối đá khổng lồ, được kê lên bởi những hòn đá nhỏ tựa
chiếc bàn. Đỉnh Phan Xi Păng đấy! Tiếng địa phương gọi "Hua-si-pan",
nghĩa là phiến đá lớn khổng lồ nằm chênh vênh. Đỉnh Phan Xi Păng cao ngất giữa
trời mây được kết cấu bởi những phiến đá như vậy.
Phan
Xi Păng được ví là nóc nhà Việt
(Cinet)
Lào Cai - Sa pa
Sapa
|
Sapa - Một thắng cảnh miền núi
Một bà già Hơ Mông móm
mém cười và nói "Jolie, non?" (Có đẹp không?), bà chào bán quần áo với
mấy khách du lịch Pháp. Người Pháp vẫn chiếm số lượng đông đảo trong số những
khách du lịch đến vùng đất Bắc hẻo lánh của Việt
Cuộc tấn công của Trung Quốc
đầu năm 1979 vào Sapa đã tàn phá hầu hết những tòa nhà lớn, kể cả những biệt
thự do
người Pháp xây cất. Với con số trên 200 biệt thự, mà chỉ có 10
nhà còn lại khi người Việt lấy lại được thị trấn này sau hai tuần. Bây giờ,
khi chiến tranh đã lùi xa cuộc sống ở đây lại bình yên
Gần chợ Sapa, một viện bảo
tàng văn hóa các dân tộc thiểu số đã được mở cửa với sự trợ giúp của Đại sứ quán
Úc tại Hà Nội. Bảo tàng này thu hút được nhiều khách và đem lại cho Sapa một
nét độc đáo riêng.
Trên thị trấn Sapa 1650 m so với mực nước biển chỉ có một con đường
mòn nhỏ bé nối với những làng nhỏ hẻo lánh của người thiểu số. Những quả đồi
và những ngách núi chật hẹp đến nỗi thỉnh thoảng bạn phải đi nghiêng người.
Con đường này làm bạn thấy quên lãng thực tại và lạc vào giữa thiên nhiên
tươi đẹp.Từ Sapa các con đường tỏa ra những quả đồi đi qua khu mộ cổ. Những
bia đá ở đây thì thầm với bạn "Hãy để tâm hồn thanh thản".
Đó chính là điều mà chúng tôi quyết định làm. Khi con đường quá
hẹp, chúng tôi leo lên gờ đá - nơi chưa ai từng đặt chân đến. Chúng tôi leo
lên đỉnh đèo, tới một hẻm núi nơi có đường mòn khả dĩ hơn dẫn tới một nơi sáng
sủa. Cao hơn nữa, chúng tôi còn thấy một đàn gia súc đi trên một đỉnh núi khác.
Chỉ một bước lỡ thôi chúng sẽ bị rơi xuống vực. Con đường này dẫn tới một đường
mòn chạy xuống làng Sapa. Ở đây có phụ nữ mở hiệu cà phê và cà phê phin ở
đây thật tuyệt. Chúng tôi ngồi dưới tàn cây nho rậm rạp, thưởng thức cà phê
và nghe khúc nhạc chiều cùng những bài hát vùng núi rừng. Nếu bạn bất ngờ
đến một trong những làng này, sự xuất hiện của bạn có thể làm dân ở đây bối rối.
Bạn nên đến Sapa vì Sapa là nơi dành cho bạn - bạn có thể là chính mình mà
không cần phải đóng vai "một nhà nhân loại học tâm thần".
Bạn từ Hà Nội đến Sapa bằng
ôtô hoặc tàu hỏa một ngày hai chuyến, tàu dừng ở ga Lào Cai. Tôi đã từng được
cảnh báo về tình trạng của Sapa, nhưng mọi thứ trong toa đều mới và sạch hơn một
số tàu tôi đã từng đi. Cùng đi toa nằm với tôi có hai gia đình người Việt. Tôi
mang theo một ít bánh qui và ăn cùng lũ trẻ - thật chẳng có gì có thể làm tan sự
xa lạ giữa chúng tôi nhanh hơn.
|
Ở Lao
Cai, có những chuyến xe buýt nhỏ đưa đoàn lên núi. Xe cứ leo mỗi lúc một cao
hơn, xuyên qua lớp sương mù và lên tới một độ cao nơi không khí trong lành, sạch
sẽ. Mặt trời ló ra và bạn đến một vùng khí quyển loãng giàu ánh sáng.
Những người dân thiểu số sống tại vùng này nói thứ tiếng thổ ngữ
Đêm thứ Bảy là đêm "Chợ
Tình" ở "thị trấn" Sapa. Những chàng trai, những cô gái trẻ tràn
trề hy vọng, mặc những bộ cánh kẻng nhất của mình đi xuống chợ để tìm bạn tình.
Những đứa trẻ trước tuổi dậy thì, thậm chí, trông chúng còn non hơn cả bọn học
sinh choai choai, xem chúng thật buồn cười vì làm bạn nhớ đến cái thời vụng về
lóng ngóng tuổi thiếu niên. Nhưng những đêm chợ
tình ở Sapa tan rất sớm, khoảng 10 giờ đêm mọi hoạt động đã chấm dứt.
Ban đêm khách du lịch đến
Sapa tụ tập ở những quán cà phê và những nhà hàng phía cuối thị trấn. Ở
đây, bạn có thể ăn một bữa cơm Việt
Sáng thứ Bảy
Rời Sapa là việc khó khăn nhất. Thứ nhất là vì bạn không muốn, thứ
nhì là xe buýt chạy từ lúc 6h30' trước cả gà gáy. Nhưng ít nhất lúc này
bạn cũng không bị những phụ nữ Hơ Mông mời chào mua quần áo. Thật tức cười nhưng tất cả những gì tôi gặp đã làm tôi nhớ họ.
Lào Cai - Suối nước khoáng Tắc Cô
Nước khoáng Tắc Kô
18/06/2007, 14h15
Vị trí: Nước khoáng Tắc
Kô nằm ở địa phận suối Mường Tiên, huyện
Ðặc điểm: Nước khoáng Tắc Kô là mạch nước ngầm trong vắt,
ngọt và mát, có tác dụng giải khát và chữa bệnh.
Dân
vùng cao vốn quen uống nước suối, nước mạch, vì đó là nguồn sữa của đất.
Đương
buổi cày nương giữa nắng trưa, hay đương cuộc hành trình đường xa, gặp một con
suối reo vui giữa rừng, gặp một mạch nước nhỏ từng giọt tí tách, ta ngắt một
tàu lá, khum lại, hứng lấy nước mà uống, nước mát lạnh chạm vào cơ thể, làm cho
cơn khát dịu lại, tinh thần sảng khoái hẳn lên.
Đi
suốt ngày
Trời
nắng chang chang
Bỗng
tìm thấy mạch nước nguồn ngầm trong vắt
Vục
đầu xuống
Lại
xốc ba lô bước tiếp đường dài
Mỗi
một con suối, mỗi một mạch nước có vị ngọt riêng. Cũng như mỗi người, mỗi vùng
có nết tính, sắc thái khác nhau. Bởi thế mà rượu - sự thăng hoa của ngũ cốc và
nước ở mỗi vùng, mỗi lòng mạch có hương vị và độ mặn nồng, đắng cay riêng. Ở Tắc
Kô có một mạch nước như thế!. Theo con đường ngoằn ngoèo từ thị xã Lào Cai vào
thị trấn nghỉ mát Sa Pa, qua khỏi địa phận Mường Tiên, theo tiếng địa phương,
vùng đất dễ gây ấn tượng bởi con suối trong vắt, ngay cạnh bờ suối có một gốc
cây đa bây giờ đang có nguy cơ lụi tàn mà khách bộ hành thường thắp hương cầu
may, có một mạch nhỏ khiêm nhường chảy rỉ rả không làm cho ai để ý. Bên cạnh
đó, là một ngôi nhà, mái ngói phủ đầy rêu phong. Mạch nước ấy khiêm nhường như
thế, nhưng nghe nói không biết có đúng, nó đang chiếm lĩnh một vị trí trong viện
bảo tàng ở nước Pháp? Vì chính mạch nước ấy đã từng là nguyên liệu dồi dào của
hãng nước khoáng Đông Dương xưa kia!.
Cinet
Lâm Đồng - Đà Lạt
Đà lạt
Ở Việt Nam, nếu Hà Nội là thành phố luôn tạo cảm hứng cho các nhà thơ và
nhạc sĩ bằng vẻ đẹp tự nhiên và cổ kính, Thành phố Hồ Chí Minh nổi tiếng bởi sự
ồn ào và môi trường kinh doanh tấp nập thì Đà Lạt tự hào là xứ sở của các loại
rau ngon nhất và những loài hoa đẹp nhất. Ở một đất nước phong phú về các
loại lúa gạo, hải sản và hoa quả nhiệt đới, nhưng những sản phẩm rau quả cung
cấp từ Đà Lạt luôn mang một sắc thái và hương vị riêng biệt. Có được tính độc
đáo này chính là nhờ chúng được trồng tại một nơi cao 1,500m so với mặt biển.
Điều kiện khí hậu quanh năm mát mẻ và khung cảnh nên thơ của một vùng cao
nguyên quanh năm hoa nở đã khiến người Pháp đặt cho Đà Lạt một cái tên thơ mộng
"Thành phố của mùa xuân bất tận". Giữa mùa hè, khi người dân Thành
phố Hồ Chí Minh đang bức bối trong cái nóng gần 40 độ, thì cách đó chỉ 300 km,
dân Đà Lạt vẫn điềm nhiên hít thở làn không khí trong lành và mát lạnh của cao
nguyên. Điều kiện khí hậu quanh năm ôn hòa rất lý tưởng cho việc trồng các loại
rau quả không mọc được trong môi trường nhiệt đới.
"Số cà chua này có thể đi tới bất kỳ đâu", bà Nguyễn Thị Phương, một
người bán buôn rau ở chợ Đà Lạt vừa nói vừa chỉ vào đống cà chua đỏ ối trong
gánh hàng của bà. Tuyên bố của bà Phương hẳn sẽ làm cho các nhà trồng trọt
trên toàn thế giới lo ngại. Nhưng trên thực tế, các nhà hàng và quán ăn dọc từ
Thành phố Hồ Chí Minh tới Nha Trang chính là những nơi tiêu thụ sản phẩm rau quả
của bà Phương cũng như nhiều gia đình trồng rau khác ở đây.
Đối với những người dân sống và lớn lên tại Đà Lạt thì khí hậu chẳng có
gì đặc biệt nhưng với những người nước ngoài sinh sống ở đây thì Đà Lạt luôn
đem đến cho họ những bất ngờ thú vị. Ông Jin Kook Kim một giáo sư Nam Hàn đã
35 năm nghiên cứu về làm vườn nói: "Trong thời gian giảng dạy tại Đại học
Tổng hợp Đà Lạt tôi đã bị cuốn hút bởi những giống phong lan rừng được trồng ở
đây. Dù đã đi nhiều nơi nhưng tới đây tôi mới nhận ra rằng Đà Lạt chính là mảnh
đất dành cho tôi". Bốn năm sau, ông trở thành giám đốc Công ty Nông Lâm sản
Đà Lạt và ông đang có ý định biến một sườn đồi Đà Lạt thành nơi ươm và trồng
những giống phong lan quý hiếm. Ngoài phong lan, ông Kim cũng rất quan tâm đến
chè, một sản phẩm được trồng nhiều ở Đà Lạt. Khách du lịch tới đây đều rất ấn
tượng khi quan sát những đồi chè xanh bạt ngàn chạy dọc theo hai bên đường quốc
lộ 21 từ tỉnh Lâm Đồng tới Đà Lạt. Chè xanh là giống được ưa chuộng nhất
trong rất nhiều các loại chè khác nhau được trồng tại đây. Ông Nguyễn Mạnh
Hùng, Giám đốc Công ty Lâm Viên (Lavico), một trong những công ty nông lâm sản
lớn nhất của Đà Lạt cho biết: "Chúng tôi đã chế biến chè từ hàng chục năm
nay". Lavico có những khu trồng chè riêng biệt nhưng họ cũng thu mua chè
từ các hộ nông dân khác. Tuy nhiên, điều khó khăn là hiện nay, các sản phẩm chè
và cà phê Việt Nam vẫn bị bán với giá thấp so với sản phẩm cùng loại của các nước
khác trên thị trường thế giới chủ yếu do chất lượng không ổn định.
Cho dù rất lạc quan nhưng các nhà đầu tư cũng rất quan tâm tới việc
"liệu kinh doanh của họ sẽ phát đạt đến đâu?". Nhiều công ty đã mở
các "shop" tại Đà Lạt với hy vọng sẽ xuất khẩu được sản phẩm của họ
ra nước ngoài. Tuy nhiên, hạ tầng cơ sở yếu kém ở Đà Lạt là một trong những
nhân tố hạn chế kinh doanh. Hiện không có đường bay quốc tế trực tiếp đến Đà Lạt
trong khi đường bộ chỉ có một số ít cây cầu chịu được các xe ô tô trọng tải
18 tấn, bên cạnh đó việc cung cấp điện nước không ổn định. Trong khi đó, thị
trường rau trong nước vẫn tiêu thụ chủ yếu sản phẩm của các hộ nông dân cá thể
do người dân dù rất thích rau sạch. Đà Lạt nhưng ít ai bỏ tiền mua một cái bắp
cải giá 10.000 thay vì chỉ cần mua nó với giá 2.000.
Giá rau Đà Lạt sẽ còn ở mức cao do các trang trại tư nhân chưa đủ mạnh để chiếm
được những lợi thế từ sản xuất qui mô lớn. Các nhà trồng trọt than phiền về
giá đất cao và qui chế sử dụng đất đã hạn chế họ mở rộng sản xuất. Các hợp đồng
thuê đất chỉ có giá trị từ 25 đến 30 năm nên rất ít hộ dân đầu tư vào các giống
cây có giá trị, chẳng hạn giống cà phê Arabica chỉ sau 5 năm mới cho thu hoạch.
Tuy nhiên, theo lời ông Thomas Hooft, Giám đốc điều hành của Công ty sinh học hữu
cơ Hasfarm Đà Lạt, tình hình có vẻ khả quan: "chúng tôi rất hài lòng về chất
lượng các sản phẩm được tạo ra ở đây". Với những giống hoa Tulíp được
đưa từ xứ sở Hà Lan sang, ông Hooft vừa quyết định sinh sống tại Đà Lạt. Mặc
dù đa số các sản phẩm hoa do công ty ông trồng là để xuất khẩu nhưng thị trường
nội địa cũng đang được quan tâm. "ở Hà Nội, người mua đòi hỏi rất khắc
khe: thân hoa phải dài, lâu tàn và có hương". Nhưng chỉ sau một thời
gian được đưa ra Hà Nội, hoa Đà Lạt đã khẳng định được vị trí "độc
tôn" của mình với giá mỗi bông khoảng 20.000 đồng.
Do những tác động về thời tiết bởi hiện tượng El Nino đưa lại, nông dân
đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước canh tác và một số chuyên gia đã dự
tính sản lượng một số cây trồng
Lâm Đồng - Thác Hang Cọp
Thác hang cọp
|
Vài năm trở lại đây, du khách
đến TP Đà Lạt có nghe nói đến thác Hang Cọp, một thắng cảnh mới được khai thác ở
vùng Trại Mật thuộc phường 11 - TP Đà Lạt, nhưng đi đến thác để tận mắt ngắm
nhìn cảnh đẹp này thì còn ít bởi đường đến thác tuy không xa nhưng lại khó đi.
Từ trung tâm TP Đà Lạt dọc
theo quốc lộ 20 (QL 11 cũ) đi về phía Trại Mật khoảng 10km, đến ngang Nhà thờ
Trại Mật, có một ngã rẽ vào con đường đất phía tay trái, đó là đường vào thác.
Qua hơn 5km đường đất quanh
co dưới tán rừng thông, qua những con dốc xuôi thoai thoải chằng chịt rễ cây,
khách sẽ nghe tiếng thác chảy réo rắt từ xa. Không gian rất im vắng không bị
khuấy động bởi tiếng ồn ào của phố thị. Nắng vàng xuyên qua lá thông chiếu xuống
ánh sáng mát dịu. Sau khi lội qua một con suối nhỏ nước chảy trong veo là ta đã
đến đầu ngọn thác. Từ đó, bước theo một bậc cấp xi măng xuống vực sâu, hai bên
cây lá chen chúc dày đặc. Đến chân thác, hơi nước tỏa mù
Cảnh vật quanh thác còn hoang sơ: rừng
thông ở trên đồi cao thẳng tắp dưới bầu trời xanh trong, dưới lũng sâu nhiều
loại cây tạp chen chúc rậm rạp, cành lá đan xen mà ánh nắng mặt trời không chiếu
xuyên qua được. Nếu
Vì sao thác này có tên Hang Cọp?
Cho đến nay, chưa tìm được một huyền thoại nào, nhưng theo lời dân địa
phương, do dòng nước chảy mạnh từ cao xuống xói mòn các hốc đá bên dưới tạo
thành một hố sâu trông
Thác Hang Cọp là một cảnh
quan rất thích hợp cho các loại hình du lịch thể thao dã ngoại
Lâm Đồng - Khu du lich sinh thái Đa
Mê
Khu du lịch sinh thái
Đa Mê
18/06/2007, 14h07
Vị trí: Đa Mê nằm giữa
buôn làng N' Thol Hạ của người bản địa K'Ho, cách ngã ba Liên Khương - Đức Trọng
- Lâm Đồng khoảng 8km.
Đặc điểm:
Đa Mê bao gồm 2 ngọn thác Đa Mê 1 và Đa Mê 2 cao ngất, ầm ào tuôn chảy ngày đêm
giữa núi rừng hùng vĩ.
Đa
Mê là một hệ thống các kênh rạch, ngoằn ngoèo chạy ẩn mình dưới những tán rừng
xanh ngắt...Tất cả "quần thể" độc đáo này được thiên nhiên kiến tạo từ
muôn đời nay nhưng phải đến giữa đầu năm 2001 mới được khám phá và đánh thức bởi
doanh nghiệp Thanh Long. Chủ doanh nghiệp dịch vụ sinh thái này là ông Phạm Văn
Thược - một kỹ sư nông nghiệp (đúng hơn là một nông dân) gốc người Hà Nội. Ông
đến khai phá và định cư ở vùng đất mới Nam Ban - Lâm Hà - Lâm Ðồng từ năm 1976.
Đặt viên gạch khởi công đầu tiên, ông Thược phải bỏ ra 40 triệu đồng đền bù một
số hộ sản xuất nông nghiệp để san ủi, mở rộng một con đường với chiều dài hơn
200m, rộng 6m từ quốc lộ 27 chạy đến thác. Kế tiếp, ông xây dựng khu nhà nghỉ,
cửa hàng nằm giữa công viên với hàng trăm dáng bonsai, hàng ngàn "kỳ hoa dị
thảo". Rừng, suối, thác, động vật hoang dã, hồ bơi, nhà rông... được bố
trí trong một không gian hài hoà, rộng hơn 30ha. Ở đây, chiếc cổng chào cũng thật
đặc biệt: cao 8m, mô phỏng theo kiến trúc "Vạn lý trường thành”. Bên cạnh
hồ bơi tại khuôn viên là phòng trưng bày các mẫu vật Tây Nguyên. Những hang động,
hòn non bộ cũng được xây dựng khá cầu kỳ, trong đó thích nhất là tượng mãnh hổ
và đại bàng đang sà cánh hướng vào nhau, biểu tượng của cảnh "Anh hùng
tương ngộ" đậm chất sử thi Tây Nguyên...
Lên
du lịch Ðà Lạt – Lâm Ðồng du khách không chỉ được nghỉ lại đêm giữa rừng, lắng
đọng với nhịp điệu cồng chiêng cao nguyên mà còn được len lỏi trên dòng kênh rạch
với những chiếc thuyền độc mộc; được câu cá, thưởng thức những sản vật sông hồ
giữa rừng thông lộng gió, ngắm hàng dừa xanh xoã bóng bâng khuâng xuống mặt hồ.
Ông Thược chọn hai thung lũng gần kề vốn sình lầy, um tùm cỏ dại để nạo vét,
xây dựng kè đá, dẫn nước từ thác vào bằng kênh đào dài hơn 200m. Hồ bơi rộng
400m², hồ du thuyền và câu cá rộng gần 5.000m² tha hồ cho khách du lịch đắm
mình giữa không gian trời-mây-rừng-suối -nước cao nguyên.Ðây là một khu du lịch sinh thái
có quy mô lớn hàng đầu ở Lâm Ðồng với tổng số tiền cho những hạng mục đầu tư
hoàn thành là 3,5 tỷ đồng. Hiện nay, khu du lịch sinh thái Đa Mê đã chính thức
“trình làng” đón khách. Người dân bản địa, người dân địa phương được tự do ra
vào, không phải thu vé vào cổng. Từ đây, trên bản đồ du lịch Ðà Lạt – Lâm Ðồng,
du khách sẽ có thêm tour mới: du lịch sinh thái Thanh Long.
Cinet
Long Anh - Danh lam Đồng Tháp Mười
Khu du lịch sinh thái
Núi Đất & Khu bảo tồn dược liệu Đồng Tháp Mười
|
Đồng
Tháp Mười từng nổi tiếng về di tích lịch sử văn hóa và nhiều khu du lịch sinh
thái... Tuy nhiên, trong đó còn có một khu du lịch mới cũng thuộc về vùng Đồng
Tháp Mười (Long An), khá đẹp và có nhiều nét độc đáo. Đó là ngọn giả sơn (hay
còn gọi là Núi Đất) và khu bảo tồn dược liệu Đồng Tháp Mười, nằm gần biên giới
Mộc Hóa - Campuchia...
Muốn
đến Núi Đất và khu bảo tồn dược liệu Đồng Tháp Mười, du khách sẽ khởi hành từ
thị xã Tân An (Long An) đến ngã ba Bưu Điện, rẽ theo Tỉnh lộ 49 khoảng 65km đến
thị trấn Mộc Hóa, gặp ngã tư Biên Phòng, rẽ trái chừng 300m là tới Núi Đất. Khu
du lịch Núi Đất nằm ngay trung tâm thị trấn Mộc Hóa - huyện vùng biên giới của
tỉnh Long An. Sở dĩ gọi Núi Đất vì nó không phải là núi tự nhiên, mà chính do
bàn tay con người tạo nên. Vào năm 1957 đến năm 1960, cùng với việc chấn chỉnh
địa lý hành chính và xây dựng tỉnh lỵ Kiến Tường ở Mộc Hóa, chính quyền Ngô
Đình Diệm đã bắt tù chính trị đào đất chung quanh khu vực này đắp thành vài khu
giả sơn để làm thắng cảnh. Nhìn từ xa, Núi Đất như một hòn non bộ khổng lồ nổi
lên trên một hồ nước trong xanh, êm đềm, khá đẹp và thơ mộng. Nối liền Núi Đất
với bờ là chiếc cầu xi măng cách điệu uốn cong. Khu Núi Đất chia làm ba tiểu đảo:
Tiểu
đảo 1 có núi lớn cao khoảng 10m, núi nhỏ cao 5m và nhiều tảng đá ong rêu phong
theo thời gian năm tháng. Xen lẫn vào đó là những cây cổ thụ tỏa bóng mát rượi,
có đường lên xuống bằng những bậc đá đảm bảo an toàn cho khách du ngoạn. Tiểu đảo
2 là một ngọn núi cũng được xây đắp bằng đất nối liền tiểu đảo 1 bằng cây cầu
dài nhỏ. Tiểu đảo 3 nằm bên trái hồ sen, được tạo dáng như hòn non bộ bằng đá
có hai cây bồ đề phủ trùm bóng mát. Trong lòng hồ còn có 2 nhà thủy tọa để du
khách hóng mát, trò chuyện...
Từ
Núi Đất đi chưa đầy 1km là đến bến tàu Mộc Hóa. Từ đây khách phải đi ngược dòng
Vàm Cỏ Tây về hướng Campuchia để đến với vùng Đồng Tháp Mười... Sau 3 giờ đồng
hồ lênh đênh trên sông, thuyền rẽ mũi vào một rạch nhỏ là đến khu bảo tồn dược
liệu Đồng Tháp Mười. Trong ký ức của nhiều người, Đồng Tháp Mười là “rừng
thiêng nước độc”, nơi đó chỉ có “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh như bánh
canh”. Đó là dấu ấn của ngày xưa, còn hôm nay giữa vùng nước mênh mông ấy có cả
một khu bảo tồn thiên nhiên có nhiều cây dược liệu quý nhất Đồng bằng sông Cửu
Long.
Anh
Nguyễn Văn Bé - Giám đốc khu bảo tồn cho biết, ngoài nhiệm vụ bảo tồn, phát triển
và trồng mới nhiều loại dược liệu, hiện nay có hơn 1.000 loại dược liệu sinh
thái. Ngoài ra trung tâm còn trực tiếp sản xuất nhiều loại thuốc chống ung thư,
viêm siêu vi, sốt rét, viêm xoang và các loại thuốc đặc trị khác... và làm nhiều
loại theo đơn đặt hàng của các xí nghiệp dược trong và ngoài nước.
Hoàng
hôn buông xuống, những đàn chim, cò... hàng ngàn con bay về đậu trắng xóa trên
những ngọn cây rừng xung quanh khu bảo tồn. Đêm xuống, gió lồng lộng, cứ tưởng
tượng giữa một vùng đồng trống mênh mông cơ man nào là nước, xen lẫn những cánh
rừng bạt ngàn, nghe các bản tài tử cải lương Nam bộ, nghe những bản tân cổ giao
duyên thật ngọt ngào ngân vang và dường như cánh rừng tràm không dám lung lay,
con cá dưới mương cũng không dám vẫy đuôi bơi lội... Những ly rượu thuốc được
chế từ cây thuốc địa phương chuyền tay nhau thưởng thức, hương rượu thơm nồng,
ngọt ngào. Nhiều người cùng bảo nhau “hãy có một đêm trắng” để mai về thành phố
sẽ giữ được mãi trong lòng những phút giây lý thú trong đời.
(Cinet T.H)
Nam Định - Bãi biển Thịnh Long
Bãi biển Thịnh Long
18/06/2007, 14h19
Vị trí:
Biển Thịnh Long thuộc thị trấn Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh
Đặc điểm:
Là bãi biển đẹp với những hàng phi lao trên bờ biển xa ngút tầm mắt.
Từ
thành phố
Thịnh Long là một bãi tắm mới đưa
vào khai thác du lịch vài năm nay. Bãi tắm Thịnh Long có cát mịn, thoải dài
hàng cây số. Nước biển có độ mặn cao, sóng lớn hấp dẫn nhiều du khách trong mùa
hè oi bức. Du khách đến với biển Thịnh Long là đến với vẻ đẹp nguyên sơ, môi
trường chưa bị ô nhiễm. Những hàng phi lao trên bờ biển xa ngút tầm mắt tô điểm
cho biển Thịnh Long một vẻ đẹp thuần khiết, khoáng đạt. Các loại đặc sản biển ở
đây nhiều, ngon và rẻ. Bãi tắm Thịnh Long hiện nay đang đông dần. Trong tương
lai lượng khách đến với Thịnh Long sẽ không thua kém các bãi tắm khác.
Cinet
Nghệ An - Cửa Lò
Cửa Lò chiều xuống
|
Trong những ngày gió Lào hầm hập, Cửa Lò chưa hẳn đã
là nơi có thể mang lại một chút gì đó dịu mát. Nhưng đến Cửa Lò lại đặc biệt từ
khoảng chiều về đêm. Lúc đó, sẽ có một thế giới sinh động tuyệt vời.
Cửa
Lò nằm biệt lập với Vinh bởi những cánh đồng vắng lặng hai bên đoạn đường dài
18km từ thành phố ra biển. Không duyên dáng như những bãi biển vùng duyên hải ở
Nam Trung bộ, Cửa Lò - nơi dòng sông Lam êm đềm hoà vào biển - mang một dấu ấn
riêng khiến người ta nghĩ: đến đây chỉ để ngắm nhìn thôi thì chán lắm, mà phải
vọc biển, chạm vào biển và… ăn hải sản! Du khách sẽ thấy biển xôn xao bởi tiếng
bọn trẻ chơi đá bóng trên bãi cát rộng, bởi tiếng cười giòn tan của những cô
gái giỡn sóng và bởi ngoài khơi bắt đầu tiếng "hò hê" của những đoàn
ghe thuyền ra khơi.
Hệ
thống khách sạn, nhà nghỉ vài năm gần đây ở hai bên đường dẫn ra biển Cửa Lò mọc
lên san sát chứng tỏ sự phát triển về du lịch của nơi đây. Du khách đến nơi đây
đã thấy được sự sạch sẽ của nước biển, một khu nghỉ không quá tải về lượng
khách tạo không khí nghỉ ngơi bình yên.
Trong
cái oi bức cuối ngày, buổi chiều được xắn quần đi dọc bờ biển có sóng rì rào
mát lạnh, quả thật dễ chịu và như một thú vui khi đến bãi biển này. Sóng không
quá lớn nhưng cũng không quá nhỏ để dịch ra xa hơn. Bãi cát dài hơn 10 cây số bắt
đầu hừng lên màu của hoàng hôn. Cái màu đỏ thẫm
của
nắng treo trên đầu những ngọn sóng rồi theo từng đợt gió hắt lên một bãi ghềnh
đá vào cuối bãi. Trong ánh hoàng hôn, có thể thấy nhiều thuyền thúng, thuyền
chài chuẩn bị ra khơi. Những ngư dân chất phác "ăn sóng, nói gió" và
những câu chuyện phiếm xứ Nghệ sẽ không phụ lòng khách phương xa biết đến làm
quen, bắt chuyện.
|
Ghềnh đá ở Cửa Lò. |
Ở
đây, trên ghềnh đá còn có một quán cà phê nhỏ. Đây cũng là nơi có thể vừa nhâm
nhi ly cà phê, vừa phóng tầm mắt ngắm hoàng hôn lộng gió. Ghềnh đá này đang được
nhiều doanh nghiệp du lịch chọn làm địa điểm xây dựng khu nhà hàng. Mặt trời đỏ
như quả cầu lửa lăn qua những ghềnh đá nhọn rồi dừng lại ở dãy núi tím mờ xa.
Khi
về đêm, Cửa Lò mang hình ảnh một thành phố nhấp nhô trên mặt biển. Cảnh tượng ấy
chỉ có thể có được khi những ghe thuyền đã đồng loạt ra khơi. Du khách có thể bắt
một chiếc thuyền và cùng ra khơi với ngư dân, tròng trành trên biển đêm để
chong đèn vớt những đám mực sim bị ánh sáng thôi miên. Mùa hè, biển sóng nhẹ,
lũ mực chỉ thấy sáng là kéo nhau đến vây quanh, có khi chỉ dùng vợt là có thể vớt
được khá nhiều. Còn mỗi giã lưới của ngư dân có khi "gom" được đến chục
ký cá, tôm và đặc biệt là mực. Nếu không muốn ra khơi được với ngư dân thì du
khách chỉ việc ngồi trên bãi biển, đợi thi thoảng có một chiếc thúng vào là có
thể đến xem những giã tôm cá còn tươi rói, nhảy tanh tách.
Nhiều
người thích thú khi được tận tay chọn lựa món mực nháy (tức loại mực ống, nhỏ
như ngón tay, khi vớt lên bờ vì còn tươi nên trên lưng có những đốm nháy sáng
màu tím) hay tôm càng, cá mú còn sống và hình dung ra một đĩa hấp thơm ngon.
Hơn nữa, giá mực và cá tươi ở đây ở dạng bình dân. Với những người đã quen với
Cửa Lò thì hãy cứ ngồi ngả lưng trên ghế bố, thể nào cũng có những người dân cắp
rổ cá mực hay tôm tươi đến tận nơi mời mọc. Có thể mua, rồi vào những hàng quán
hiếu khách và hấp lên là đã có thể đánh chén một bữa hải sản đáng nhớ.
|
Ngư dân trong ánh hoàng hôn. |
Cửa
Lò càng về đêm càng sống động với một thế giới vừa mang đủ diện mạo làng chài,
vừa là một khu du lịch mới, có thể ăn uống và có nhiều thú vui ấn tượng. Chẳng
lạ gì khi đêm về, khuya khoắt rồi, những ánh đèn soi cá vẫn sổ dài, long lanh mặt
biển. Và trên bờ, những đoàn khách phương xa vẫn xắn quần lội nước, chờ những
chiếc thuyền đổ bến để có những món hải sản tươi ngon.
Và
khi đã ngâm ngấm men rượu, du khách có thể ra bãi biển nằm dài và thể nào cũng
có vài chú bé vác chiếu đến mời tẩm quất, và khi đồng ý thì có thể nằm ngay lên
chiếu và nghe trên lưng mình những tiếng roàm roạp điệu nghệ của mấy cu cậu tẩm
quất bình dân ở Cửa Lò. "Đội quân" này hiện có khoảng vài ba chục em.
Là con cái của ngư dân, các em phần lớn phải làm thêm nghề này để có thu nhập.
Giá cho một đợt tẩm quất khoản 5.000 - 10.000 đồng.
Đến
với Cửa Lò vừa thấy gần gũi lại vừa xa xôi. Gần là vì những ấn tượng thân quen
đã trải qua trong những chiều hôm. Và xa là vì chẳng biết khi nào trở lại được
ra khơi, ăn sóng nói gió và cảm nhận niềm hạnh phúc khi được nhâm nhi món cá, mực
mà tự tay mình vớt lên từ biển.
(Cinet)
Nghệ An - Khu du lịch núi Quyết
Khu du lịch núi Quyết
18/06/2007, 14h22
Vị trí: Khu du lịch núi
Quyết nằm ở chân núi Quyết, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Đặc điểm:
Trên đường vào Nam ra Bắc qua phà Bến Thuỷ, nhìn về phía tây, có một dãy núi nhỏ,
đó là rú Quyết ngút ngàn thông reo và trở thành lâm viên núi Quyết, một điểm du
lịch kiểu mới của tỉnh Nghệ An.
Khu
du lịch núi Quyết có diện tích gần 160ha (diện tích núi 56ha) gồm nhiều tiểu
khu: khách sạn nhà nghỉ ở phía tây nam, nhìn ra bờ sông Lam là các khách sạn
nhà nghỉ theo kiểu biệt thự mini và làng văn hoá dân tộc; tiểu khu vui chơi giải
trí gồm bể bơi, cầu trượt nước, thuỷ cung, nhà hát múa rối nước, rạp chiếu
phim, khu cắm trại, sân bãi thể thao, đặc biệt là cáp treo du lịch qua sông Lam
nối hai vùng đất Nghệ An - Hà Tĩnh; tiểu khu dịch vụ gồm siêu thị, nhà thuyền,
bãi đỗ xe...; tiểu khu di tích thành cổ, nhà bia...
Năm
1998, là năm kỷ niệm 210 năm Phượng Hoàng Trung Đô Vinh, thành phố đã hoàn
thành hệ thống đường bao quanh núi dài 5km, kỳ đài trên đỉnh núi và nhà bia dẫn
tích. Núi Quyết vốn có thế "long ly quy phượng" nhưng thật sự có vị
trí nổi bật khi Quang Trung - Nguyễn Huệ chọn làm đất đóng đô: "nhớ lại buổi
hồi loan kỳ trước, lúc qua Hoành Sơn, quả cung đã từng mở xem địa đồ, thấy ở
huyện Chân Lộc, xã Yên Trường (núi Quyết - Bến Thuỷ) hình thế rộng rãi, khí tượng
tươi sáng... thật là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy..." (trích trong chiếu của
Nguyễn Huệ gửi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp ngày 3 tháng 9 năm Thái Đức 11, tức
1/10/1788).Nguyễn Huệ
đã cho xây thành, dựng lầu điện tại đây. Phượng Hoàng Trung Đô được xây ở khoảng
giữa núi Quyết và núi Kỳ Lân (rú Mèo), nay còn dấu tích của thành hình tam
giác. Đó là thành nội, chu vi 1.680m giữa có lầu rồng ba tầng. Thành ngoại cấu
tạo hình thang, chu vi 2.820m. Từ trên thành có thể nhìn thấy sông Lam, sông
Vĩnh Doanh và kênh nhà Lê uốn lượn giữa cánh đồng Hưng
Cinet
Nghệ An - Nhà thờ đá Bảo Nham
Nhà thờ đá Bảo Nham
Bảo Nham, một xứ đạo không lớn
lắm nằm sát đường số 7 thuộc huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Rời quốc lộ 1A rẽ về
phía đường số 7 khoảng 15km, hiện ra trước mắt du khách là nhà thờ đá Bảo
Nham.
Nhà thờ đá Bảo Nham được xây dựng
vào những năm các giáo sĩ phương Tây đến truyền giáo ở Việt
Ai có dịp ghé thăm nhà thờ đá Bảo
Nham vào những ngày hè oi bức mới cảm nghiệm hết được giá trị của nó. Nhà thờ
không có quạt trần, máy lạnh, trời thì nóng
Chưa hết, thiên nhiên còn ưu
đãi cho Bảo Nham một khu lèn đá cũng đáng tự hào không kém. Cách nhà thờ lối nửa
cây số, lèn đá Bảo Nham có những đường hang xuyên từ chân lèn tới đỉnh. Tận dụng
vẻ đẹp này người dân và vị linh mục ở đây đã xây dựng một đường bậc thang lên tới
đỉnh, hai bên những bậc thang là các bức tượng lớn. Mùa lễ về hay năm mới đến, ở
đây còn được tô điểm thêm bởi những đêm lễ hội truyền thống, tô thêm vẻ đẹp của
một miền quê yên tĩnh.
Ninh Bình - Hòn Non nước
Hòn non nước
Ai về Dục Thúy chẳng ngơ
ngẩn lòng
Trên thì núi, dưới thì sông
Cúc vàng còn đó, hương nồng còn đây
Du khách đã quen thuộc với các địa danh du
lịch nổi tiếng trên đất Ninh Bình như: Bích Động, rừng quốc gia
Cúc Phương, động Hoa Lư...Nhưng đến với mảnh đất lịch sử này, không thể
không đến hòn Non Nước với động Thủy Thần, đền Non Nước và động Tam Phủ.
Lối vào hòn Non Nước là một dải đất hẹp, chạy dọc theo bờ đê sông Vân. Người
có công đầu trong việc phát hiện và khai thác vẻ đẹp của Non Nước là Trương Hán
Siêu - một quan văn đời Trần. Ông đặt tên núi là "Dục Thúy" và là người
đầu tiên lưu lại chốn sơn thủy hữu tình này bút tích một bài thơ "Khai lối"
cho các thi sĩ, các tao nhân, mặc khách đến thưởng ngoạn, ngắm cảnh làm những
bài thơ khắc vào đá.
Lối
lên đỉnh Non Nước qua 72 bậc gạch đá, chia làm năm cấp, khi thì khúc khuỷu, khi
thì dựng đứng, lúc lại phẳng phiu. Đỉnh núi tương đối bằng phẳng, có thể làm
điểm nghỉ ngơi, vui chơi giải trí cho khách tham quan. Hòn Non Nước nằm ở vị
trí rất trọng yếu, án ngữ toàn bộ ngã ba sông Đáy, sông Vân, quốc lộ 1A và nhiều
đường giao thông quan trọng, nên trong thời kỳ kháng chiến, bọn thực dân cướp
nước luôn tìm cách tiếp cận vị trí này. Hiện tại, dọc hai đường lên núi vẫn còn
những lô cốt với vết tích của bom đạn thời chiến tranh.
Dưới
chân núi, uy nghiêm một ngôi đền thờ cổ được xây dựng vào thời Lý Nhân Tông. Trước
cửa đền là một sân cảnh thoáng đãng nhìn ra sông Đáy mênh mông. Chiều chiều tiếng
hát chầu văn từ đền Non Nước lan tỏa khắp mặt sông, nghe vừa gần gũi, vừa thân
thương biết bao. Nắng chiều rọi xuống mặt sông bàng bạc, tiếng mái chèo khua nước,
những con thuyền nép vào vách núi...gợi cho du khách vẻ đẹp buồn man mác.
Tới
Ninh Bình, mời du khách ghé thăm nơi đây, thăm lại nơi chứng kiến cuộc chuyển
giao chế độ quan trọng trong lịch sử đất nước: dưới chân núi Non Nước, Thái hậu
Dương Vân Nga đã trao áo long bào cho Thập đại tướng quân Lê Hoàn cầm quân đánh
đuổi quân xâm lược nhà Tống ra khỏi bờ cõi.
Ninh Bình - Hoa Sơn Động
Hoa Sơn Động
Dãy núi Trường Sơn chạy theo hướng Bắc - Nam, đến Trường Yên lượn
một vòng cung tuyệt đẹp. Cố đô Hoa Lư xưa, trong đó có đền vua Đinh, vua Lê, lợi
dụng thế núi vòng cung này mà xây dựng kinh thành, cung điện. Phía ngoài Hoa Lư,
cách kinh thành cổ khoảng 2km là thôn Áng Ngũ - địa danh từ thời Đinh, nói rõ:
Đến đây phải dừng lại, trình giấy tờ, trước khi được phép vào chầu vua.
Ninh Bình là tỉnh vốn được thiên nhiên ưu ái, ban tặng nhiều động
đẹp, cảnh đẹp. Chỗ thôn Áng Ngũ, xã Minh Hòa, huyện Hoa Lư do tay trời bày đặt
đã mở ra một cảnh đẹp tuyệt vời: Hoa Sơn Động. Cái động này
Một vòm hang lớn mở ra: chùa trong đó - Hoa Sơn Tự trong Hoa Sơn Động
mới là cảnh độc đáo, mới là nét hữu tình. Tôi đảo mắt nhìn lên cao, trên nền đá
vôi có tất cả 5 bậc tượng ngồi. Những bậc xây khá kiên cố, có bậc đã xanh màu
rêu phong, trên cùng là 3 vị Bụt Ốc. Ngồi dưới là Phật Bà nghìn mắt nghìn tay rồi
đến bậc có Thị Kính ngồi. Dưới đó là bậc thờ tượng Đức Ông. Bậc cuối cùng là Hộ
pháp, có cả quan văn, quan võ.
Trong ánh nắng thu, nắng Hoa Lư vàng như mật ong soi vào vòm
hang rộng và trong làn khói hương nghi ngút, sư già Thích Đàm Thuần thuyết
minh về hang động và ngôi chùa. Theo tay chỉ của sư già, tôi ngước nhìn lên
vòm hang hình cánh dù giữa bầu trời ôi đẹp làm sao! Và cảm nhận những đường nét
thiên tạo mà dẫu là các nhà kiến trúc tạc tượng vào loại siêu cũng không thể bì
kịp. Một mỏm đá nhô lên chỗ đường dẫn ra hang Nâu phía sau núi. Mỏm đá này hình
thành tượng Di Lạc đang ngồi trầm ngâm
Hoa Sơn Động là những trang sách đá về đôi nét lịch sử triều Đinh.
Chuyện kể rằng: Hoàng hậu Dương Vân Nga nhờ nơi cửa Phật này mà sinh nở, ấu
chúa Đinh Toàn cất tiếng khóc chào đời ở đây. Bởi vậy, hang động này còn được gọi
là Phôi Sinh Tự, nhân dân quanh vùng gọi nôm na là chùa Bà Đẻ. Ông bà Hậu đã có
công nuôi ấu chúa, nay có miếu thờ và có tượng ông bà bên vách núi, chỗ bước
lên vòm hang cao. Chung quanh Hoa Sơn Động có Quèn Reo - tiếng quân reo hò báo
tin thắng trận, có Mã Giang - nơi lắm ngựa.
Ninh BÌnh - Núi cánh diều
Núi cánh diều
Ở phía Đông thị xã Ninh Bình có một
trái núi lớn tên là Cánh Diều. Tên gọi đó gắn liền với truyền thuyết về sự hóa
thân của Cao Biền - một tướng giỏi, đồng thời là một pháp sư đời nhà Đường
(Trung Quốc) sang cai trị nước ta, thường cưỡi diều giấy đi dò phá long mạch
nước Nam, khi bay đến đất Hoa Lư đã bị một đạo sĩ cao tay cùng nhân dân ở đây,
dùng tên bắn, Cao Biền bị trọng thương, diều gãy cánh rơi xuống một hòn núi, từ
đó hòn núi mang tên là Núi Cánh Diều. Núi có ba ngọn, ngọn giữa cao, hai ngọn tả,
hữu chĩa ra
Bảng nhãn Lê Quý Đôn (1726-1784),
người Thái Bình, có đến thăm núi, cho khắc thơ vào vách đá phía Tây. Tạm dịch:
Ruộng
phẳng nhô đá biếc
Thế
núi tựa diều bay
Chùa
ẩn ba đỉnh núi
Sông
có cầu qua ngay
Núi
vững
Suối tựa dãi rồng đây
Năm 1821, vua Minh Mạng (1820-1840)
tuần du ra Bắc có ghé thăm núi và cho khắc dòng chữ trên vách núi ở phía Bắc, dịch
là: Dựng một nhà nhỏ nghỉ chân, khi lên núi xem thấy chùa tháp của sơn thành, cột
buồm bến sông, cảnh đẹp như vẽ, cúi xuống giặt chiếc áo bụi đời. Trở về kinh
đô, vua Minh Mạng quan tâm đến "bụi đời", đến nông nghiệp, đề ra
chính sách khẩn hoang gồm hai hình thức đồn điền và doanh điền. Doanh điền là
di dân lập ấp mới. Nhà vua cử Nguyễn Công Trứ (1778-1858) - người huyện Nghi
Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, ra Ninh Bình năm Kỷ Sửu (1829) làm doanh điền sứ, chiêu mộ
dân nghèo đi khai hoang vùng ven biển.
Đến cuối năm 1829, Nguyễn Công Trứ
cùng nhân dân khai phá được 14620 mẫu đất và 1268 người, miền đất đó đã ổn định,
vua Minh Mạng cho lập thành một huyện mới tên là Kim Sơn (Núi vàng). Thời ấy,
Nguyễn Công Trứ cũng chọn một cụm dân cư đông đúc trong huyện đặt tên là Phát
Diễm: Nơi phát sinh ra cái đẹp ("Diễm" và "Diệm" cùng âm,
nghĩa là đẹp, ngày nay gọi là Phát Diệm).
Tương truyền, đặt tên là Phát Diễm
vì Nguyễn Công Trứ đã đi qua thị xã Ninh Bình, phát hiện thấy núi Cánh Diều còn
tượng hình một cô gái mình trần nằm ngửa nhìn trời mây bao la trông rất đẹp,
nên đặt tên cho núi là núi Ngọc Mỹ Nhân (người con gái đẹp như ngọc), đầu mỹ
nhân lại quay ra Biển Đông thuộc đất huyện Kim Sơn, có nghĩa là phát đẹp ở đó.
(ngày nay, ở thị trấn Phát Diệm huyện Kim Sơn, nơi có nhà thờ đá nổi tiếng các
cô gái đều có mái tóc dài, người thon thả rất xinh đẹp). Núi Cánh Diều - Ngọc Mỹ
Nhân, mỗi tên gọi đều có một huyền thoại riêng, độc đáo.
Nếu du khách đi từ phía Nam ra Bắc
theo quốc lộ 1A, cách thị xã Ninh Bình khoảng 5km, nhìn về, thấy một trái núi
giống hệt "Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng", như kiêu hãnh với sắc đẹp
mê hồn của mình. Có lẽ, ít có dãy núi nào trên đất nước ta lại có một dáng hình
đẹp và cái tên mỹ miều đến như thế mà do Nguyễn Công Trứ có con mắt "tinh
đời" đã gọi được tên!
Mong ai về qua đất Ninh Bình, đến
đây, nên dừng chân ngắm nhìn "người đẹp như ngọc" một thoáng trong
mây, để: dùng dằng đi chẳng dứt, đi thì cũng dở ở không xong.
Ninh Bình - Tam Cốc - Bích Động
Tam Cốc - Bích Động
18/06/2007, 14h27
|
|
Vị trí: Ðộng nằm trong
dãy núi Ngũ Nhạc Sơn thuộc địa phận thôn Ðam Khê, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh
Ninh Bình.
Đặc điểm:
Cảnh đẹp của Bích Ðộng được mệnh danh là "Nam Thiên đệ nhị động"
(động đẹp thứ nhì ở trời
Năm
1773, cụ Nguyễn Nghiễm (thân sinh của đại thi hào Nguyễn Du) đã đến thăm động.
Nhìn toàn cảnh núi, động, sông nước, đồng ruộng, bầu trời ở đây đều phủ một màu
xanh ngợp mắt nên cụ đã đặt cho động một cái tên rất đẹp và mộng mơ "Bích
Ðộng" (có nghĩa là Ðộng Xanh). Ðến đây du khách sau khi viếng thăm chùa,
con thuyền nhỏ sẽ đưa du khách đi quanh co trong hang núi huyền ảo. Bích Ðộng
đã được mệnh danh là "Nam Thiên đệ nhị động" (động đẹp thứ nhì ở trời
Từ Bích Ðộng du khách tiếp tục ngồi
thuyền đi thăm Tam Cốc. Tam Cốc nghĩa là ba hang: hang Cả, hang Hai và hang Ba.
Lúc thuyền luồn vào ba hang, du khách sẽ cảm thấy mát lạnh. Thạch nhũ từ trần
hang rủ xuống lô nhô óng ánh như những khối châu ngọc kỳ ảo.
Cinet
Ninh Thuận - Tháp chàm Ninh Thuận
Tháp Chàm Ninh Thuận
Trong
số 2.593 di tích được xếp hạng của nước ta, hệ thống tháp Chàm có một ý nghĩa đặc
biệt. Chúng là những bằng chứng sinh động nhất về một nền văn minh rực rỡ của
Nhà nước Chămpa. Như vậy, ở Ninh Thuận có hai phong cách của hai thời kỳ: phong
cách sớm và phong cách muộn.
Tháp
Hoà Lai
|
Theo
đánh giá của các nhà nghiên cứu phương Tây, khu tháp Hoà Lai hay còn gọi là Tam
Tháp là một trong những cụm di tích Chăm cổ nhất và đẹp nhất hiện còn tồn tại.
Tháp được xây dựng vào đầu thế kỷ IX, trước đây gồm 3 tháp trên một diện tích
200m2, rộng 125m, nhưng hiện nay tháp Trung tâm đã bị sụp đổ, chỉ còn 2 tháp là
tháp Bắc và tháp Nam. Thực tế, qua khảo sát được biết rằng dân địa phương đã
phát hiện và đang lưu giữ một vài hiện vật có liên quan đến tháp Hoà Lai.
Tháp
PoKlong Garai
|
Đại
diện cho phong cách muộn (đầu thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII) là tháp Poklong
Gairai, tháp Pôrôme. Tháp PôKlông Garai gồm nhiều công trình lớn nhỏ khác nhau,
nhưng hiện nay còn lại 3 ngôi xây bằng gạch. Đó là tháp Cổng (cao 8,56m), tháp
Lửa (cao 9,31m) và tháp Chính - tháp thờ vua PôKlông Garai - (cao 21,59m, mỗi cạnh
rộng hơn 10m). Bố cục và cấu trúc của mỗi tháp là cả một công trình kiến trúc
nghệ thuật. Mỗi cạnh, mỗi tầng và mỗi mặt của từng tháp được trang trí bằng các
hoạ tiết gốm, đá với đủ loại hình người, hình đuôi rồng, hình lá, hình bò thần.Tất
cả công trình trạm trổ, điêu khắc đều phản ánh đầy đủ ý nghĩa về nghệ thuật và
tôn giáo của người Chăm.
Tháp
Pôrômê
|
Tháp
Pôrômê được coi là phiên bản của tháp PôKlong Garai. Có thể thấy sự thừa hưởng
có tính sáng tạo rất rõ nét ở công trình kiến trúc nghệ thuật này. Linga tám
tay với khuôn mặt của vua thần hoá Pôrômê là một ví dụ. Hình bà Thu Chí (bà
Trinh Nữ), vợ của vua ở miếu thờ với bộ ngực tròn, đầy đặn, nở nang và đôi mắt
vô cùng sống động của một cô gái Chăm cũng nói lên điều đó.
(Cinet T.H)
Phú Thọ - Đầm Ao Châu
Đầm Ao Châu
18/06/2007, 14h35
|
|
Vị trí:Thuộc huyện Hạ
Hòa, cách thị xã Phú Thọ 50km, cách thành phố Việt Trì 70km.
Đặc điểm:
Đầm Ao Châu được coi là một Hạ Long trên đất Phú Thọ. Đây là một tiềm năng du lịch
hấp dẫn và đầy triển vọng của đất tổ Vua Hùng.
Đầm
Ao Châu nằm trên địa bàn thị trấn Hạ Hòa và các xã Y Sơn, Ấm Hạ và Phụ Khánh
thuộc huyện Hạ Hoà. Du khách có thể đi bằng đường bộ, đường sắt hoặc đường thuỷ
tới Ao Châu đều thuận lợi. Theo đường sắt, Ao Châu nằm trên tuyến đường Hà Nội
- Lào Cai và tương lai không xa sẽ là trục đường sắt xuyên Á, nối liền các nước
trong khu vực với tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Theo đường bộ, thắng cảnh này nằm
trên trục quốc lộ số 2 - tuyến đường quan trọng nhất nối thủ đô Hà Nội với các
tỉnh phía Tây Bắc. Theo đường thủy, có nhiều con sông lớn chảy qua như sông Hồng,
sông Đà, sông Lô...
Ao
Châu có diện tích mặt nước khoảng 2km² và có tới khoảng 100 hòn đảo lớn nhỏ được
bao phủ một thảm thực vật đa loài dầy đặc và phong phú, đỉnh cao nhất cao tới
177m so với mặt biển, cùng với 99 ngách nước đan cài vào các khe núi. Đáng chú
ý là mực nước trong hồ luôn có độ sâu khoảng 3m, có nơi sâu tới 35m và quanh
năm không bị cạn. Nhờ vậy, mặt nước Ao Châu trong xanh, không bị ô nhiễm và có
nhiều thủy tộc sinh sống: giải, rùa vàng, ba ba... Đặc biệt, nhân dân địa
phương còn trồng nhiều loại cây ăn quả như: mít, bưởi, nhãn, vải... khiến cho
Ao Châu càng trở nên hấp dẫn.
Ao
Châu có điều kiện rất thuận lợi để phát triển thành khu du lịch sinh thái với
các loại hình du lịch như: nghỉ dưỡng, bơi thuyền, câu cá, leo núi..., đáp ứng
nhu cầu của du khách trong và ngoài nước, nhất là khách du lịch Trung Quốc.
Cùng với khu du lịch này, các tài nguyên du lịch thuộc các địa phương khác như:
các lễ hội truyền thống, các di tích lịch sử văn hóa, hệ thống hang động của vườn
quốc gia Xuân Sơn, Ao Giời - Suối Tiên, khu nghỉ dưỡng nước khoáng nóng Thanh
Thủy, sinh hoạt văn hóa của đồng bào các dân tộc thuộc huyện Thanh Sơn, Yên Lập...
sẽ tạo nên một tam giác du lịch mang những sắc thái khác nhau với các loại hình
du lịch đặc sắc, phong phú, đa dạng.Khu
du lịch Ao Châu đang trở thành điểm du lịch sinh thái hấp dẫn, thúc đẩy sự phát
triển của cả một vùng về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Ngoài ra, sự
hình thành và phát triển của khu du lịch này còn thúc đẩy sự
phát triển các làng nghề truyền thống, các ngành sản xuất, tiêu thụ hàng hóa,
nhất là xuất khẩu tại chỗ nhiều loại hàng hoá, hàng lưu niệm cũng như các dịch
vụ khác.
Cinet
Phú Yên - Ghềnh Đá Đĩa
Ghềnh Đá Đĩa
18/06/2007, 14h41
|
|
|
Vị trí: Ghềnh Đá Đĩa
thuộc xã An Ninh Đông, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Đặc điểm:
Mặt đá như muôn ngàn chiếc đĩa xếp chồng bên nhau màu đen tuyền bên biển xanh
thăm thẳm tung bọt biển trắng xóa.
Nhìn
Ghềnh Ðá Ðĩa người ta cho rằng từ hàng ngàn, hàng vạn năm trước, nơi đây núi lửa
phun nham thạch, gặp nước biển cực lạnh, xảy ra phản ứng hóa học làm rạn nứt
toàn bộ khối nham thạch khổng lồ tạo thành lớp lớp cột đá chen nhau, cao từ 60
- 80cm so với mặt biển. Mặt đá như muôn ngàn chiếc đĩa xếp chồng bên nhau màu
đen tuyền.
Du
khách khắp nơi về thăm Ghềnh Ðá Ðĩa đi chân không trên đá nghe êm mát. Trai gái
ngồi trên đá tự tình nghe gió rì rào và sóng vỗ. Xa xa là bãi Bàng - bãi tắm
cát như tấm nệm trắng tinh chờ đón du khách.
Ðứng
trên Ghềnh Ðá Ðĩa du khách sẽ thấy những ngư ông xô thuyền, dùng đá cuội ném
cá. Từng đàn cá bơi trong màu nước trong veo bị tung đá bắn lên cao. Ngư ông
nghiêng người cúi xuống nhặt những con cá bạc tròn múp, mình cong cong bỏ
vào thuyền mang về.
Nối liền với Ðá Ðĩa là ngọn núi
nhỏ xinh xinh được tạo bởi những cột đá hình đa giác. Du khách muốn đến đây phải
băng qua ghềnh nhỏ. Một bên là vực sâu, sóng va vào đá ràn rạt, hắt vị mặn nồng
lên cao. Bước thêm một đoạn nữa du khách sẽ thấy những cây xấu hổ, xương rồng
trổ hoa nơi lưng chừng núi như bức tranh chấm phá kỳ ảo của thiên nhiên. Ðến Ðá
Ðĩa du khách sẽ bị cuốn hút bởi vẻ đẹp huyền hoặc.
Cinet
Quảng Bình - Đèo Ngang
Đường qua Đèo Ngang
|
Từ
Đồng Hới, theo Quốc lộ 1A tiến về Quảng Bình là đoạn đường trên sườn núi có tên
gọi rất nổi tiếng: Đèo Ngang. Đây là đoạn cuối cùng của dãy núi giáp biển Đông
và là điểm thấp nhất mà ông cha ta đã chọn làm cửa ngõ giao thông. Ở đây, nhìn
về phía Tây, là dãy núi kỳ vĩ trông như bức trường thành lẫn khuất giữa ngàn
mây. Vùng đất này là nơi đáng ghi nhớ trên đường mở nước của nhân dân ta. Năm 1301,
vua Trần được vua Chiêm Thành mời sang ngoạn cảnh. Dịp này, nhà vua đã ngỏ ý gả
công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm. Cưới được vợ đẹp, vua Chiêm cắt phần đất
phía
“Sớm lên Hoành Sơn ngắm
Chiều xuống Thạch Bàn tắm...” (*)
(Bài
ca đèo Ngang trông ra bể - Trúc Khê dịch)
Trên
đỉnh đèo, bốn phương lộng gió, nước non bao la hùng vĩ khiến lòng khách phương
xa dạt dào cảm xúc. Tại đây có hàng ngàn bậc đá xuống tận chân đèo. Chiều xuống,
sương mây nặng dần trên đỉnh núi mang theo cái se lạnh của đất trời khiến du
khách sẽ bùi ngùi nhớ đến Bà huyện Thanh Quan với bài thơ Đường bất hủ - “Qua
đèo Ngang”:
“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa…”
|
Trên đỉnh Đèo Ngang (Quảng Bình). |
Năm
tháng trôi qua nhưng bức tranh “cỏ cây chen đá lá chen hoa” vẫn còn đó, xa xa
hiện lên những đồi thông trầm mặc đẹp đến nao lòng. Tuy nhiên hình ảnh “lom
khom dưới núi tiều vài chú” không còn nữa mà là những chàng trai, cô gái lên rẫy,
bên cạnh những đàn bò nhẩn nha gặm cỏ trông thật thanh bình. Vẫn còn đó “lác
đác mom sông chợ mấy nhà” nhưng không phải chỉ là mái tranh vách lá đơn sơ mà
là ẩn hiện những mái tôn, mái ngói giữa vùng trùng điệp núi non xanh thẳm sắc
màu.
Nếu
không muốn vượt qua con đèo hiểm trở này, du khách có thể sử dụng đường hầm. Giờ
đây, ở chân đèo Ngang đường sá rộng thênh thang, xe cộ qua lại dập dìu, cho thấy
một bức tranh sôi động của thời kỳ phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch của địa
phương.
(Cinet)
Quảng Bình - Phong Nha - Kẻ Bàng
Di sản thiên nhiên thế
giới Phong Nha - Kẻ Bàng
18/06/2007, 14h47
|
|
|
Vị trí: Phong Nha - Kẻ
Bàng thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50km
về phía tây bắc. Từ Đồng Hới, ngược theo quốc lộ 1A khoảng 5km rẽ trái theo đường
Trường Sơn đến xã Sơn Trạch, sau đó đi thuyền trên sông Son khoảng 30 phút thì
tới nơi.
Đặc điểm:
Ngày 3 tháng 7 năm 2003, Phong Nha - Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là Di sản Thế
giới - Di sản thế giới thứ 5 của Việt Nam.
Đây
là một phần của khu vực núi đá vôi cổ nhất ở Châu Á được tạo lập từ hơn 400 triệu
năm trước, gắn liền với các chu kỳ kiến tạo và phát triển chính của lịch sử
trái đất.
Diện
tích của vùng núi đá vôi Phong Nha - Kẻ Bàng thuộc địa phận tỉnh Quảng Bình -
Việt
Nằm
trên địa hình phức tạp ở Phong Nha - Kẻ Bàng còn có Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng. Diện tích Vườn quốc gia này là 85.754ha, trong đó chiếm 94% diện tích là
rừng nguyên sinh. Tại vườn quốc gia này các nhà khoa học đã thống kê được 568
loài thực vật, 876 loài động vật với: 113 loài thú lớn, 81 loài bó sát và lưỡng
cư, 72 loài cá, 259 loài bướm, 302 loài chim… trong đó nhiều loài động thực vật
thuộc danh mục sách đỏ của Việt Nam và thế giới.
Phong
Nha - Kẻ Bàng còn có hệ thống hang động với tổng chiều dài gần 13.000m (phần đã
được phát hiện), với hàng chục hang động lớn, nhỏ. Các hang động có chiều cao từ
10 đến 40m. Nhiều hang động trong số này mới chỉ dừng lại ở dạng phát hiện đánh
dấu trên bản đồ, chưa khảo sát kỹ. Trong đó đầu tư khai thác du lịch chỉ một
vài hang động: Phong Nha, Tiên Sơn, Hang Vòm… Hang động ở đây rất đa dạng, nhũ
đá đẹp huyền ảo.
Theo báo cáo khoa học của đoàn
thám hiểm Hội Địa lý Hoàng Gia (nước Anh), chiều dài của hang Phong Nha phần
xác định được là 7.729m. Hang động Phong Nha được đánh giá với “7 nhất”: sông
ngầm đẹp nhất; cửa hang cao và rộng nhất; bãi cát, bãi đá ngầm đẹp nhất; hồ nước
ngầm đẹp nhất; hang khô rộng và đẹp nhất; thạch nhũ kỳ ảo và tráng lệ nhất và
hang nước dài nhất.
Cinet
Quảng Nam - Bãi biển Cửa Đại
Bãi biển Cửa Đại
18/06/2007, 16h51
Vị trí:
Thuộc phường Cẩm An, thị xã Hội An, tỉnh Quảng
Ðặc điểm:
Là một bãi tắm đẹp ở Quảng
Cửa Đại nằm cách đô thị cổ Hội An
5km về phía đông theo đường 608 nối dài. Đây là một bãi tắm lý tưởng, rộng
khoảng vài chục héc ta với dải cát trắng mịn, nước trong xanh, sóng nhỏ và luôn
được mặt trời chiếu sáng. Cửa Đại là nơi thích hợp để xây dựng khu du lịch với
nhiều loại hình vui chơi giải trí hẫp dẫn: tắm biển, thể thao nước, nghỉ dưỡng.
Cinet
Quảng Nam - Biển Lăng Cô
Lăng Cô biển hẹn
|
Khu du lịch Lăng Cô là một trong bốn vùng du lịch trọng
điểm quốc gia. Với diện tích gần 14.000 m2, địa điểm này kết hợp được vẻ hoang
sơ của rừng núi và không gian thoáng đãng của biển cả.
Lăng
Cô ngày xưa là nơi nghỉ mát của vua Khải Định và gia đình mang tên Hành cung tịnh
viên. Hiếm nơi nào hội tụ được nhiều ưu thế của tạo hóa như nơi đây: có đầm
phá, núi non, biển đảo, gò đồi... lại cách chân đèo Hải Vân có 1km.
Thức
giấc ở chân mây
Điểm
cập bến của du khách là cảng nước sâu Chân Mây. Cả bãi biển dài 11km trắng ngời
lên trong nắng.
Nằm
gần khu du lịch sinh thái vườn quốc gia Bạch Mã, Lăng Cô kết hợp được không khí
hoang sơ của rừng núi và đặc trưng ồn ào, nhộn nhịp của vùng biển nhiều tàu
thuyền qua lại. Du khách đến với Lăng Cô theo nhiều nhóm khác nhau, người đến để
câu cá, lặn biển, người khác muốn leo núi, thăm rừng. Cũng có cả những du khách
lớn tuổi ghé Lăng Cô đơn giản là để tĩnh dưỡng. Con người hiền hòa, khí hậu khi
mưa không mưa nhiều, khi nắng không nắng quá, cảnh quan trật tự, ngăn nắp. Khu
nghỉ dưỡng Lăng Cô có khoảng 70 phòng, trong đó 45 phòng là dạng biệt thự có kiến
trúc theo kiểu nhà vườn Huế. Cây xanh xen lẫn cảnh vật, nơi đây đầy đủ tiêu chuẩn
của khu nghỉ mát 4 sao. Với những du khách mới đến, từng nhịp cầu cong đặt bên
những chiếc ô che kiểu Hawaii, tán thông xanh mơ màng ngay cạnh những gốc cau cảnh...
mang một vẻ đẹp rạng ngời, giống y như màu nắng và màu cát trắng nơi đây.
Khu
du lịch trọng điểm
|
Nhà nghỉ ở khu du lịch biển Lăng Cô. |
Nếu
lấy vũng Chân Mây làm tâm điểm, quay một vòng tròn có bán kính 30km, chúng ta sẽ
có được cả một vùng du lịch rộng lớn, đa dạng và khép kín. Ở đó có biển, có rừng,
có suối nước nóng Mỹ An chữa được nhiều bệnh, rồi lăng tẩm của các vị vua triều
Nguyễn, cả dòng Hương Giang văng vẳng giọng ca Huế trong đêm hoa đăng và đàn
Nam Giao nơi các triều vua tế trời xin cho dân lành nước mạnh khi xưa.
Ở
Lăng Cô, ẩm thực của Huế và Đà Nẵng hòa hợp với nhau nhịp nhàng và ăn ý. Món
bánh canh ngọt lịm vị chả cua, đĩa ghẹ luộc nguyên con đỏ au mời gọi, bát bún
riêu có thêm miếng càng cua đã bóc vỏ trắng muốt ăn cho vui miệng... Ăn xong mới
hiểu thế nào là miếng ngon nhớ đời!
(Cinet)
Quảng Nam - Cù Lao Chàm
Cù Lao Chàm
|
Cát trắng bắt nắng trưa vàng ươm khi
thuyền chúng tôi cập cầu tàu Bãi Làng (cù lao Chàm, Hội An Quảng Nam). Cả cù
lao đỏ rực màu cờ. Hơn một vạn rưỡi du khách và ngư dân tụ hội tại đây, cùng
dự lễ hội văn hóa - thể thao miền biển thị xã Hội An 1997. Trên một ngàn chiếc
lớn nhỏ đậu san sát tại khắc các bãi Làng, bãi Ông, bãi Hương... Đa số họ là
ngư dân các huyện Quảng
Vừa đặt chân lên bờ, chúng tôi đã bị cuốn
hút ngay vào những cuộc thi kéo co, thi đá bóng nam nữ ở bãi Ông và hội thi đan
lưới ở bãi Làng... Chúng tôi bị kéo đi, bị đẩy đi, bụi hút vào hết cuộc vui này
đến điểm tụ hội khác. Lễ khánh thành lăng tổ nghề yến ở bãi Hương trang nghiêm
và náo nức. Người dự bỗng nghe lòng tràn một cảm xúc xót xa, nghĩ về những người
treo thân trên vách đá treo leo, dám đổi cả sinh mạng để lấy cho được những tổ ấm
cũng làm bằng máu của một loại chim biển. Lễ rước Long Chu. Những cụ già tóc bạc
phơ trịnh trọng áo khăn, dẫn đầu đoàn rước xuống thuyền, tiếng trống vỗ tưng bừng
đầu sóng. Lễ điều hành thuyền hoa về bãi Làng. Hơn hai mươi chiếc thuyền hoa lộng
lẫy và trên năm trăm thuyền ngư dân cổ động cùng san sát ràn rạt rẽ nước bơi
đi. Những chiếc thuyền hình rồng, hình cá tung tăng với sóng. Những đội thuyền
đua không chịu thua thuyền máy, hăm hở bứt lên đảo vòng. Trống càng giục, sóng
càng xô. Đoàn thuyền đi kéo theo sau đuôi lửa hoa đăng dập dềnh mặt biển .Ánh
điện cùng soi với ráng chiều rực rỡ chói người. Tiếng máy tàu, tiếng nhạc dội
vào vách đá ngân u. Bãi Làng đã sáng điện đón chờ, tiếng cười reo át cả tiếng
sóng đầu hôm nước ngang. Đoàn thuyền hoa lượt sát một vòng bãi Làng, rồi từ từ
neo đậu trong âu thuyền cù lao. Nhạc hội được tiếp liền với những lời ca, điệu
múa nao nức lòng người. Hội bả trạo của đội bả trạo xã Cẩm Thanh (Hội An), các
tiết mục của đội văn nghệ thị xã và màn diễn của các nghệ nhân đoàn tuồng Nguyễn
Hiển Dĩnh đã thu hút hơn một vạn người vây kín âu thuyền.
Chỉ vài tháng trước thôi, cù lao đón
chúng tôi bằng cảnh đìu hiu cuối đông của một làng chài xơ xác. Còn bây giờ, sức
mạnh lễ hội đã tạm xóa nhòa hết cả. Tiếng đàn ca của hội giao lưu du khách và
các nghệ sĩ vang vọng khắp bãi Ông. Đèn đuốc ngư dân soi sáng đỉnh cây vách
bãi Hương dựng đứng. Đám thanh niên căng lều thức trắng gảy ghi ta cho đến tận
bình minh. Rồi khi trống lại nổi lên, người người lại xúm xít dọc bãi ông, chen
vai thích cánh theo dõi hội đua thuyền. Những ngư dân đen trũi rướn ngược người
với sóng, bơi mạnh dầm chèo giành lấy tiếng hoan hô. Hội thi thuyền, thúng
chao lắc ngả nghiêng, khéo léo
Cù lao qua lễ hội náo nức một sức mạnh mới,
Quảng Nam - Mỹ Sơn
Mỹ Sơn xưa và nay
|
Thánh địa
Mỹ Sơn. |
Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy
Xuyên, cách thành phố Ðà Nẵng khoảng 70 km về phía Tây Nam, cách Trà Kiệu
khoảng 10 km về phía Tây trong một thung lũng kín đáo.
Mỹ Sơn là thánh địa Ấn Độ giáo của
vương quốc Chămpa. Những dòng chữ ghi trên tấm bia sớm nhất ở Mỹ Sơn, có niên đại
khoảng thế kỷ thứ 4 cho biết vua Bhadresvara đã xây dựng một ngôi đền để dâng
cúng vua thần Siva-Bhadresvara. Hơn hai thế kỷ sau đó, ngôi đền đầu tiên được
xây dựng bằng gỗ đã bị thiêu huỷ trong một trận hỏa hoạn lớn.
Vào đầu thế kỷ thứ 7, vua Sambhuvarman
đã xây dựng lại ngôi đền bằng những vật liệu bền vững hơn, còn tồn tại đến ngày
nay. Các triều vua sau đó đều tu sửa các đền tháp cũ và xây dựng đền tháp mới để
dâng lên các vị thần của họ.
Với hơn 70 công trình kiến trúc bằng gạch
đá, được xây dựng từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 13, Mỹ Sơn trở thành trung tâm kiến
trúc quan trọng nhất của Vương quốc Chămpa. Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một
bộ Linga hoặc hình tượng của thần Siva - Ðấng bảo hộ của các dòng vua Chămpa. Vị
thần được tôn thờ ở Mỹ Sơn là Bhadresvara - là vị vua đã sáng lập dòng vua đầu
tiên của vùng Amaravati vào cuối thế kỷ 4 kết hợp với tên thần Siva, trở thành
tín ngưỡng chính thờ thần - vua và tổ tiên hoàng tộc.
Vào năm 1898, di tích Mỹ Sơn được phát
hiện bởi một học giả người Pháp tên là M.C Paris. Vào những năm đầu thế kỷ XX,
2 nhà nghiên cứu của Viễn thông Pháp là L.Finot và L.de Lajonquière và nhà kiến
trúc sư kiêm khảo cổ học H. Parmentier đã đến Mỹ Sơn để nghiên cứu văn bia và
nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Chăm. Cho đến những năm 1903-1904 những tài liệu
cơ bản nhất về bia ký và nghệ thuật kiến trúc Mỹ Sơn đã được L.Finot chính thức
công bố.
Tiền thân của quần thể kiến trúc Mỹ
Sơn cổ kính này, theo căn bia để lại là một ngôi đền làm bằng gỗ để thờ thần
Diva Bhadresvera. Nhưng đến khoảng cuối thế kỷ VI, một cơn hoả hoạn đã thiêu
cháy ngôi đền gỗ. Bức màn lịch sử đã được các nhà khoa học vén dần lên thông
qua những bia ký và lịch sử nhiều triều đại xưa cho ta thấy Mỹ Sơn là khu thánh
địa quan trọng nhất của dân tộc Chăm suốt từ cuối tế kỷ IV đến thế kỷ XV. Bằng
vật liệu gạch nung và đá sa thạch, trong nhiều thế kỷ người Chăm đã dựng lên một
quần thể kiến trúc đền tháp độc đáo, liên hoàn: Ðền chính thờ Linga-Yoni biểu
tượng của năng lực sáng tạo. Bên cạnh tháp chính (Kalan) là những tháp thờ nhiều
vị thần khác hoặc thờ những vị vua đã mất. Mặc dù, thời gian cùng chiến tranh
đã biến nhiều khu tháp thành phế tích nhưng những hiện vật điêu khắc, kiến trúc
còn lại cho đến ngày nay vẫn còn để lại những phong cách giai đoạn lịch sử mỹ
thuật dân tộc Chăm, những kiệt tác đánh dấu một thời huy loàng của văn hoá kiến
trúc Chămpa cũng như của Đông Nam Á.
|
Mỗi thời kỳ lịch sử, kiến trúc mang
phong cách riêng, cũng như mỗi đền tháp thờ những vị thần, những triều vua khác
nhau tạo nên đường nét kiến trúc đầy dấu ấn, nhưng nhìn chung tháp Chàm đều được
xây dựng trên một mặt bằng tứ giác, chia làm 3 phần: Ðế tháp biểu hiện thế giới
trần gian, vững chắc. Thân tháp tượng hình của thế giới thần linh, kỳ bí mê hoặc.
Phần trên cùng là hình người dâng hoa trái theo nghi lễ hoặc hình cây lá, chim
muông, voi, sư tử... động vật gần gũi với tôn giáo và cuộc sống con người.
Theo các nhà nghiên cứu tháp Chàm cổ,
nghệ thuật kiến trúc tháp Chàm tại Mỹ Sơn hội tụ được nhiều phong cách; mang
tính liên tục từ phong cách cổ thế kỷ VII đến thế kỷ VIII; phong cách Hoà Lai
thế kỷ VIII đến thế kỷ thứ IX; phong cách Ðông Dương từ giữa thế kỷ IX; phong
cách Mỹ Sơn và chuyển tiếp giữa Mỹ Sơn và Bình Ðịnh; phong cách Bình Ðịnh...
Trong nhiều công trình kiến trúc còn lại khi phát hiện (1898) có tháp cao tới
24m, trong khu vực Tháp Chùa mà các sách khảo cổ, nghiên cứu về Mỹ Sơn có ký hiệu
là tháp cổ Chămpa, có 2 cửa ra vào phía Ðông và phía Tây. Thân tháp cao, thanh
tú với một hệ thống cột ốp. Xung quanh có 6 tháp phụ, toàn bộ ngôi tháp 2 tầng
toả ra như cánh sen. Tầng trên, chóp đá sa thạch được chạm hình voi, sư tử, tầng
dưới, mặt tường là hình những người cưỡi voi, hình các thiên nữ thuỷ quái. Năm
1969, những ngôi tháp giá trị này đã bị không lực Mỹ huỷ hoại trong chiến
tranh.
Sau khi phát hiện ra khu tháp cổ Mỹ
Sơn, nhiều hiện vật tiêu biểu trong đó đặc biệt là những tượng vũ nữ, các thần
linh thờ phụng của dân tộc Chăm, những con vật thờ cũng như những cảnh sinh hoạt
cộng đồng đã được đưa về thành phố Ðà Nẵng xây dựng thành bảo tàng kiến trúc
Chămpa. Tuy không phải là nhiều, nhưng những hiện vật này là những tác phẩm nghệ
thuật điêu khắc tiêu biểu, nó có giá trị văn hoá của một dân tộc, là những chứng
tích sống động, xác thực, lịch sử của một trong những dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam giàu truyền thống văn hoá.
(Cinet)
Quảng Ninh - Hạ Long
Hạ Long
1.
Quảng Ninh - Khu di tích danh thắng
Yên Tử
Khu di tích danh thắng
Yên Tử
18/06/2007, 17h00
|
|
|
Vị trí: Yên Tử thuộc xã
Thượng Yên Công, thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Đặc điểm:
Khu di tích danh thắng Yên Tử là một quần thể chùa, am, tháp, tượng, rừng cây cổ
thụ và cảnh vật thiên nhiên nằm rải rác từ dốc Đỏ theo chiều cao dần đến đỉnh
núi.
Khu
di tích danh thắng Yên Tử là một quần thể chùa, am, tháp, tượng, rừng cây cổ thụ.
Là cái nôi của Thiền phái Trúc Lâm từ cuối thế kỷ 13.
Nằm
trong cánh cung núi trùng điệp của khu Đông Bắc, đỉnh núi Yên Tử có chùa Đồng ở
độ cao 1.068m so với mặt nước biển. Từ xưa, núi rừng Yên Tử đã nổi tiếng là nơi
ngoạn mục và được liệt vào Danh sơn đất Việt.
Núi
Yên Tử có chiều cao 1.068 m từ xưa đã được coi là danh sơn đất Việt. Ngay từ thế
kỷ thứ 10, đạo sĩ Yên Kỳ Sinh đã đến tu hành và đắc đạo ở đây, nhưng Yên Tử chỉ
thực sự nổi tiếng khi Vua Trần Nhân Tông - một ông vua đang thời thịnh trị (cuối
thế kỷ 13) đã từ bỏ ngai vàng đến đây tu hành, nghiên cứu Phật pháp và trở
thành vị Tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm với Phật danh Điều Ngự Giác
Hoàng . Vị Tổ thứ hai và thứ ba kế tục sự nghiệp của ông là Pháp Loa Đồng Kiên
Cương và Huyền Quang Lý Đạo Tái. Từ đó, Yên Tử trở thành kinh đô tư tưởng của
Phật giáo Việt
Ngày
nay qua nhiều thăng trầm, các di tích còn lại ở Yên Tử đã tìm thấy gồm 11 chùa
và hàng trăm am, tháp, bia, tượng, hội tụ của nhiều phong cách kiến trúc, điêu
khắc của các thời đại. Hiện nay hệ thống cáp treo ở Yên Tử đã đi vào hoạt động,
đưa du khách tới chùa Hoa Yên ở độ cao 534m so với mực nước biển, nơi có hai
cây đại 700 năm tuổi. Từ đây du khách tiếp tục leo núi, tới các ngôi chùa nằm rải
rác trên đường đi tới chùa Đồng. Đường lên chùa Đồng du khách có cảm tưởng như
đi trong mây. Gặp khi trời quang mây tạnh, từ đỉnh núi này, du khách có thể
chiêm ngưỡng cảnh đẹp của vùng Đông Bắc.
Vào
mùa xuân, khách thập phương thường đến Yên Tử rất đông vừa để hành hương, vừa để
vãn cảnh. Lễ hội Yên Tử bắt đầu từ ngày 10 tháng giêng âm lịch và kéo dài đến
cuối tháng 3 âm lịch.Quần
thể di tích Yên Tử nằm gần đường 18A, cách thị xã Uông Bí 14km và là một điểm
du lịch rất hấp dẫn.
Cinet
Quảng Ninh - Núi Bài Thơ
Núi Bài Thơ
Núi Bài Thơ là ngọn núi đá vôi được hình
thành từ thế kỷ Đê - vôn, trong cuộc vận động tạo sơn In-đô-nê-si-a. Đỉnh cao
nhất của núi có hình ngọn mác chĩa lên trời, đấy là cốt + 168 m, phía dưới có
nhiều ngọn, nhiều mỏm chông chênh, vách đá dựng đứng, những lèn đá tai mèo nhọn
hoắt làm cho núi có một vẻ cổ kính, huyền bí. Từ nhiều góc độ người ta nhìn thấy
núi có lúc dáng như hổ phục, lúc có dáng như sư tử vườn mồi, lúc có dáng như
con rồng sắp cất cánh. Núi Bài Thơ thuở xưa có tên núi Rọi Đèn, tên chữ là
Truyền Đăng Sơn. Tương truyền rằng, ngày xưa lính gác trên núi hễ có giặc giã
đến thì đốt lửa báo về kinh thành. Từ đó xuất hiện tên núi Truyền Đăng.
Năm 1468, vào dịp mùa xuân, năm Quang Thuận
thứ 9, đời vua Lê Thánh Tông - cháu nội của Lê Lợi - đưa quân đi tuần ở vùng
biển Đông Bắc, có dừng thuyền ở chân núi Truyền Đăng, phía giáp với Vịnh Hạ
Long, để uống rượu ngâm thơ. Xúc động trước cảnh đẹp sơn thủy hữu tình của
thiên nhiên, nhà thơ - nhà vua Lê Thánh Tông đã cho khắc một bài thơ lên vách
đá tạm dịch
Nước lớn mênh mông,
trăm sông chầu vào
Núi non, la liệt rải
rác như quân cờ, vách đá liền trời
Có tráng trí, nhưng lúc mới
dựng nghiệp vẫn theo người,
như quẻ Hàm hào cửu tam (đã định)
Nay một tay mặc sức
tung hoành, quyền uy như thần gió
Phía bắc, bọn giặc giã như hùm beo
đã dẹp yên
Vùng biển phía
đông, khói chiến tranh đã tắt
Muôn thuở trời
Nam, non sông bền vững
Bây giờ chính là
lúc giảm việc võ, tu sữa việc văn.
Bài thơ này được khắc trên một vách đá
khá phẳng, cách mặt đất chừng 2,5 m, gồm 56 chữ Hán, khắc liền một mạch, không
phân câu như hiện nay ta chép lại. Trong 56 chữ trên có 21 chữ đã mờ hẳn, không
thể đọc nổi, những chữ còn lại rất mờ. Trước phần thơ có phần lạc khoản (đề tựa)
gồm 49 chữ, cũng bị phân hóa gần
261 năm sau, vào năm 1729 chúa An đô vương
Trịnh Cương, một nhà thơ có tiếng thời Lê - Trịnh, cũng đem quân đi tuần qua
đây. Ông cho đóng quân đồn trú dưới chân núi Truyền Đăng. Đọc thấy bài thơ của
vua Lê, chúa Trịnh bèn họa lại bằng một bài thất ngôn bát cú, lấy theo vận
"yên" của bài trước, dùng lại 4 chữ "thiên" "quyền"
"yêu" niên" trong bài của vua Lê.
Bản dịch thơ
Biển
rộng mênh mang, nước dâng đầy
Núi chìm
xuống nước, nước tràn mây
Bàn tay tạo hóa sao khéo dựng
Cảnh đẹp
thần tiên một chốn này.
Mùi tanh
giặc thác còn đâu đó
Cỏ hoa
sương khói vẫn còn đây
Ba quân tướng sĩ đều vui vẽ
Bữa tiệc
biển khơi chén rượu đầy.
(Bản dịch của Hào Minh)
Bài thơ được khắc theo lối chữ hành, trên
một vách đá nghiêng xuống đất, nếu tránh được hủy hoại của nước mưa, đến nay
còn rõ nguyên, rất dễ đọc. Đến đầu thế kỷ này nhiều tao nhân, mặc khách đi du
ngoạn vùng Hạ Long, gặp bài thơ này lại cho khắc 7 bài thơ nữa, có bài chữ
Hán, có bài chữ Quốc Ngữ trên những vách đá lân cận. Tổng số bây giờ có 9 bài
thơ còn lưu truyền trên vách đá. Khu vực này trước đây gọi là phố Lò Vôi (vì
có người nung vôi bán). May mà chưa ai phá những bài thơ để nung vôi! Nhưng
các công trình phụ của nhà dân đang "bao vây" những bài thơ, du khách
phải len chân vào sau chuồng lợn, nhà bếp mới đọc được thơ cổ. UBND TP Hạ Long
có nổ lực giải phóng được một mặt bằng khoảng 30 m2 phía trước bài thơ Lê Thánh
Tông, còn những bài khác thì tạm để nguyên đó.
Do có nhiều thơ trên vách núi, có lẽ đầu
thế kỷ này dân chúng mới đổi tên núi Truyền Đăng thành núi Bài Thơ. Ngày nay,
phố Lò Vôi (cũ) được mang tên mới là phố Bài Thơ.
Ca dao đầu thế kỷ này có câu:
Hồng Gai có núi Bài Thơ
Có hang Đầu Gỗ, có chùa Long Tiên
Chùa Long Tiên nằm ở phía đông núi Bài
Thơ, một quay ra hướng Đông, giáp với phố Bến Tàu cũ nay đổi thành phố Long
Tiên. Chùa được khởi công xây cất vào năm 1939 và hoàn thành năm 1942. Tuy được
xây dựng vào giữa thế kỷ này, nhưng kiểu cách, kiến trúc đều theo phong cách
kiến trúc đầu Nguyễn. Ngoài có tam quan, qua một sân rộng là bái đường, trên
nóc có tượng ghép gốm rồng chầu mặt nguyệt, hai bên là hai cung tả hữu.Ở chính
điện trên tam quan có ba chữ nổi Long Thọ Tiên, nhân dân rút gọn, gọi nôm na là
chùa Long Tiên. Gọi là chùa nhưng lại thờ cả thánh. Ở chính cung thờ Đức Phật
Thích Ca Mâu ni, Phật Bà Quan Âm và các Chư Phật. Hữu cung thờ Đức Thánh Trần
- Trần Hưng Đạo, Tả cung thờ Vân Hương Thánh Mẫu. Trong chùa Long Tiên có rất
nhiều câu đối, đại tự được điêu khắc rất tinh vi, thể hiện trình độ điêu khắc
khá cao. Trong các đồ thờ của chùa có Bộ Cửu Long nổi tiếng miêu tả chín con rồng
chầu Phật - là một công trình khắc gỗ công phu.
Hội chùa Long Tiên kéo dài hết tháng
giêng, hai âm lịch hàng năm thu hút rất nhiều khách thập phương. Tín đồ, phật tử
Hải Phòng khi đi lễ hội ở đền Cửa Ông, thế nào cũng rẽ vào chùa Long Tiên
"xin Đức Thánh trần" một quả cầu tài, cầu lộc.
Phía Tây núi Bài Thơ còn có đền thờ Đức
ông Trần Quốc Nghiễn - một vị danh tướng đời Trần. Tương truyền ông được đắc cử
canh giữ biên ải vùng Đông Bắc, trấn ở vùng Hồng Gai, đã lập nhiều công to
trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Đền thờ này hiện nay sử dụng làm
phòng học cho trường PTCS Hạ Long. UBND thành Phố Hạ Long đang có kế hoạch
trùng tu và phục hồi di tích văn hóa này.
Núi Bài Thơ không chỉ là di tích lịch sử-văn
hoá-tôn giáo, mà còn gắn liền với những sự kiện cách mạng những thập kỷ qua.
Ngày nay, đứng từ phía Tây thành phố Hạ Long nhìn ra hướng Đông, người ta thấy
một mỏm đá nhô ra ở tầm cao khoảng 50 m có hình thù
Bây giờ phía dưới mỏm Mỏ Quạ có biển di
tích đề rõ sự kiện trên. Thời kháng chiến chống Mỹ, ở phiá trên mỏm núi này là
nơi đặt còi báo động, một thời gióng giả báo hiệu chiến đấu cho người dân vùng
mỏ. Đi lên nữa là di tích của trạm ra-đa thời chống Mỹ. Phiá dưới núi Bài Thơ,
có nhiều hang động khá lớn. Rộng rãi nhất là hang số 6. Nơi đây thời chiến
tranh từng là nơi sơ tán của nhiều cơ quan, xí nghiệp, chủ yếu là nơi tập kết của
lực lượng tự vệ Hồng Gai. Sau mỗi đợt bọn Mỹ đánh phá, người ta đưa người bị
thương về đây cấp cứu, người khỏe cũng trú ở đây để hôm sau lại bám trụ sản xuất.
Núi Bài Thơ trở thành một cứ điểm quan trọng thời đánh Mỹ. Máy bay Mỹ mấy lần định
nhào xuống bỏ bom vào núi, nhưng do địa thế quá hiểm trở, núi Bài Thơ
Núi Bài Thơ gắn bó với lịch sử, với đời sống
nhân dân vùng Đông Bắc, trở thành một biểu tượng hào hùng của đất mỏ Quảng Ninh
giàu đẹp và kiên cường. Năm 1992, Bộ Văn hóa Thông tin nước ta ra quyết định xếp
hạng núi Bài Thơ là di tích lịch sử- văn hóa của đất nước.
Hiện nay, từng bước UBND Tỉnh Quảng Ninh
và thành phố Hạ Long đang có nhiều đề án giữ gìn, tôn tạo núi Bài Thơ, trùng tu
những công trình kiến trúc cổ quanh núi, mở đường thuận lợi cho khách du lịch
có thể tới thăm những danh thắng.
Quảng Ninh - Quan Lạn
Quan lạn
Người ta tìm đến
Quảng Ninh bởi vịnh Hạ Long và những núi than. Có ai ngó ngàng tới một hòn đảo
nhỏ
Ông Phạm Duyệt, Trưởng ban
văn hóa xã đảo Quan Lạn kể: "Thương cảng Vân Đồn đựơc hình thành từ thời
vua Lý Anh Tông, thế kỷ 12. Nó trở thành thương cảng đầu tiên của nước Đại Việt
với các hoạt động giao thương mở rộng tới nhiều nước láng giềng". Gắn với
thương cảng Vân Đồn là tên tuổi của vị anh hùng dân tộc Trần Khánh Dư, đô đốc
hải quân đầu tiên của Việt Nam, người đã cầm binh tiêu diệt đoàn thuyền lương
của giặc Nguyên năm 1288.
Ngày hội nhớ về quá khứ, mơ tương lai
Hàng năm, cứ tới ngày 18
tháng 6 âm lịch, đảo chài Quan Lạn lại tưng bừng mở hội. Cả xã đảo không một
thuyền, một người ra khơi. Hàng trăm dân đảo chẳng khác những chiến binh dũng
mãnh xung trận thuở nào. Cờ xí rợp trời, trống trận động đất, vang rền mặt biển.
Gần 650 hộ dân ở Quan Lạn bám
vào biển. Vậy mà lúc chiều xuống, biển vắng thuyền bè, chợ cá buồn lắm.
Ngay đến gió biển cũng thiếu cả vị tanh tưởi cá tôm. Bù lại, quang cảnh bày ra
là một làng chài yên ả, nhịp sống chậm rãi theo bước chân ngư dân. Nhưng, trớ
trêu là cái sự yên tĩnh ấy không phải điềm lành. Cả đảo hiện chỉ có 50 chiếc
thuyền đánh cá
Là nói vậy chứ dân đảo đâu chịu
bó tay nhìn biển. Một số ngư dân chài có chút tiền đã đầu tư nâng cấp thuyền
bè và "gác lưới", đi vận chuyển hàng hóa cho thiên hạ. Mỗi chuyến
nhiều khi kéo dài hàng tuần cũng kiếm đủ cho một cuộc sống sung túc. Một số
khác thì quay sang buôn bán các loại hàng hóa hoặc đi nơi khác làm thuê... Đời
sống dân đảo không đến nỗi nào. Hầu hết cơ ngơi đều khang trang, tươm tất.
Toàn bộ đường làng được lát gạch hoặc bê tông sạch sẽ. "Văn minh đèn điện"
ở đảo trông cậy vào hai chiếc máy nổ.
Ông Chủ tịch quả quyết:
"Đời sống dân đảo chắc chắn sẽ không dừng lại ở mức đó". Ông bảo người
dân đảo vẫn "ôm mộng" là làm cho Quan Lạn sống lại cảnh tấp nập của
thương cảng Vân Đồn xa. Nhưng, bằng cách nào "Quan Lạn sẽ phát triển
thành một trung tâm kinh tế - du lịch"- Ông nói.
Chẳng phải là xây lâu đài trên cát...
"Đó là một ý tưởng hoàn
toàn có cơ sở", ông Nguyễn Huy Cường, Giám đốc Công ty TNHH Tre Xanh, người
đã có kế hoạch khai thác tuyến du lịch tới Quan Lạn tuyên bố. Quan Lạn sẵn có một
bề dầy lịch sử hào hùng, người dân vốn chân thật mến khách. Đặc biệt hơn, có
hai bãi tắm Sơn Hào (dài 3 km) và Đầu Núi (dài 2 km) cát trắng mịn và biển xanh
trong không thua bất kỳ bãi biển du lịch nào cả nước.
"Nếu kết hợp với Hạ Long
- Cát Bà, Quan Lạn nay mai sẽ trở thành một địa điểm du lịch văn hóa sinh
thái mới trong quần thể du lịch Hạ Long - Bái Tử Long", ông Cường dự
tính.
Phát triển kinh tế ở Quan Lạn
"chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn"- các chủ nhân Quan Lạn nhận định.
Tuy nhiên, cơ sở cho sự phát triển này đã được chuẩn bị từng bước. Một dự án
điện khai thác sức gió trị giá 6,4 tỷ đồng đang trên đà thực hiện. Con đường
liên xã sắp được bê tông hóa. Dự án 773 hỗ trợ kinh phí cho xã đóng 2 tàu cá cỡ
lớn để triển khai đánh bắt cá xa bờ.
Và, thật đặc biệt, chiếc cầu
cảng dân sinh đúc bằng bê tông, công trình đầu tiên thuộc chương trình phát
triển kinh tế biển đảo Quảng Ninh do huyện Vân Đồn đầu tư xây dựng giữa trung
tâm xã đảo Quan Lạn đã được khánh thành vào đúng dịp xuân 1999. Cả dân đảo hồ hởi
háo hức đón cây cầu hệt
Quảng Trị - Bãi biển Cửa Tùng
Bãi biển Cửa Tùng
19/06/2007, 09h00
Vị trí: Biển Cửa Tùng
thuộc huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
Đặc điểm:
Cửa Tùng hấp dẫn du khách với bãi biển đẹp, cát trắng, phẳng mịn cùng các địa
danh lịch sử như Vĩ tuyến 17, Cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, Nghĩa trang liệt sĩ
Trường Sơn... ở gần đó.
Cửa
Tùng không chỉ là một địa danh lịch sử đơn thuần mà còn là một điểm du lịch nổi
tiếng. Bãi biển Cửa Tùng đẹp, cát trắng phau, phẳng mịn, dịu dàng đón những cái
hôn ngọt ngào của trời nước bao la. Nơi đây có tám mũi đất Badan đỏ au như ráng
chiều cùng chạy xô ra biển, tạo thành một chiếc lược đồi mồi kì vĩ, ngàn đời chải
mượt triệu lớp sóng xanh. Ngoài khơi xa, đảo Cồn Cỏ như một con rùa vàng ngoi
lên khỏi mặt nước tím biếc gợi cho ta bao ý tưởng về huyền thoại thủa hoang sơ.
Ở vào vị trí ấy, cửa Tùng có thể ví như "Nữ hoàng" tựa lưng vào làng
biển Vĩnh Quang bốn mùa rợp xanh bóng mát tiêu chè và rừng phi lao rì rào trong
gió.
Vào
những mùa hè khi cơn gió Lào thổi vào nóng hầm hập, khô khốc qua đồi đất miền
Trung thì cửa Tùng thật sự là "Nữ hoàng giầu sang" với những chiếc áo
choàng sặc sỡ đủ mầu và một cơ thể trong lành tươi trẻ hấp dẫn không thua kém Sầm
Sơn, Non Nước, Nha Trang hay Vũng Tầu...
Cửa
Tùng còn hấp dẫn du khách bởi lẽ - đến với cửa Tùng là đến với vĩ tuyến 17, Cầu
Hiền Lương, sông Bến Hải, nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, địa đạo Vịnh Mốc, đảo
Cồn Cỏ anh hùng... Những cái tên lịch sử ghi dấu một chuỗi thời gian dài gian
khổ và hào hùng của dân tộc để xoá đi ranh giới ngăn cách đất nước cho Bắc
Giờ
đây sau những năm xây dựng lại, cửa Tùng thực sự trở thành đúng nghĩa với chiếc
vương miện Nữ hoàng mà người đời ban tặng.Mời du
khách đến cửa Tùng để thưởng thức các đặc sản tôm cá nổi tiếng nơi đây và
chiêm ngưỡng vẻ đẹp của cửa biển được mệnh danh là:"Nữ hoàng của những bãi
tắm".
Cinet
Trà Vinh - Biển Ba Động
Biển Ba Động - Trà
Vinh
|
Không có được những bãi tắm đẹp như Vũng Tàu, Nha
Trang... nhưng biển Ba Động (Trà Vinh) đang trở thành một điểm đến lý tưởng của
khách du lịch trong và ngoài nước bởi nét hoang sơ, khí hậu trong lành cùng với
những động cát vàng ôm lấy dải rừng dương chạy dọc theo bờ biển thơ mộng.
Biển Ba Động nước xanh cát trắng
Ao Bà Om thắng cảnh miền Tây
Xin mời quí khách về đây
Ghé qua thì rõ chốn này thần tiên…
Cách
thị xã Trà Vinh khoảng 60km, biển Ba Động (gồm 1 động cát lớn và 2 động cát nhỏ)
nằm trên địa bàn ấp Cồn Trứng, xã Trường Long Hòa, huyện Duyên Hải. Khi đặt
chân đến đây, ít ai có thể ngờ rằng, để xây dựng nên một điểm du lịch hấp dẫn
như hôm nay, biển Ba Động từng hứng chịu sự tàn phá ác liệt của những năm tháng
chiến tranh.
Vào
thời Pháp thuộc, do nhận thấy Ba Động luôn có khí hậu trong lành, nên chính quyền
thực dân cho tiến hành xây dựng nơi đây thành khu nghỉ mát, tắm biển. Từ đó, địa
danh Nhà Mát được ra đời và tồn tại đến ngày nay. Trước 1975, Ba Động trở thành
khu căn cứ cách mạng Duyên Hải (Trà Vinh).
Sau
ngày thống nhất, bị chiến tranh tàn phá nên Ba Động gần như bị bỏ rơi, cô lập.
Năm 1992, Trà Vinh nhanh chóng bắt tay vào việc đầu tư để khôi phục, nâng cấp lại
các tuyến giao thông đường bộ của vùng căn cứ Duyên Hải và Ba Động được xác định
là khu du lịch trọng điểm của tỉnh. Từ đó, biển Ba Động bắt đầu hồi sinh. Đến với
Ba Động, du khách không chỉ tắm biển, mà còn được vui chơi thỏa thích trên những
động cát nhấp nhô hay thả mình trên những chiếc võng đong đưa được mắc dưới tán
rừng dương xanh mát để vừa thư giãn, vừa lắng nghe tiếng sóng biển và tiếng phi
lao trong gió rì rào như một khúc nhạc nhẹ nhàng, êm ái hòa quyện giữa không
gian yên tĩnh của rừng và biển cả.
Theo
qui hoạch của Tỉnh, khu du lịch biển Ba Động có tổng diện tích khoảng 368ha với
nhiều phân khu chức năng. Trước mắt, Tỉnh giao 7,4ha (trải rộng dọc theo bờ biển
khoảng 2,5km) cho Công ty TNHH Du lịch sinh thái Biển Ba Động khai thác du lịch.
Trong giai đoạn 1 (dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2005), đơn vị này sẽ xây dựng
với chiều dài 600m, với tổng vốn đầu tư là 5 tỉ đồng, bao gồm các hạng mục: nhà
hàng 300 chỗ và các ki-ốt đã hoàn thành; khách sạn Rừng Dương (hay còn gọi là
khu nghỉ dưỡng) và hệ thống bờ kè, hồ bơi, khu giải trí... Ngoài Công ty TNHH
Du lịch sinh thái Biển Ba Động, hiện tại khu du lịch biển Ba Động đã có 10
doanh nghiệp đăng ký vào khai thác với tổng số vốn lên đến 200 tỉ đồng. Mặc dù
chưa được hoàn thành, nhưng thời gian qua, biển Ba Động đã thu hút từ 20 - 25
ngàn lượt khách/tháng. Vào dịp lễ, tết, điểm du lịch này trở nên quá tải vì có
đến 25 - 30 ngàn lượt/ngày.
(Cinet)
Tây Ninh - Hồ Dầu Tiếng
Hồ Dầu Tiếng
19/06/2007, 10h05
Vị trí: Hồ Dầu Tiếngthuộc
xã Phước Minh, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.
Đặc điểm:
Hồ Dầu Tiếng là một biển nước mênh mông do con người tạo ra từ một công trình
thủy lợi.
Cách
thị xã Tây Ninh 20km hồ Dầu Tiếng là điểm du lịch nằm trong tuyến liên hoàn giữa
thị xã Tây Ninh - Toà thánh Tây Ninh - núi Bà Ðen với diện tích 27.000 ha, có sức
chứa 1,5 tỷ m3 nước tưới cho đồng ruộng tỉnh và các tỉnh lân cận.
Hồ Dầu Tiếng với khoảng không gian
rộng lớn, sơn thủy hoà quyện, các ốc đảo tự nhiên lạ mắt, không khí trong lành,
thoáng mát sẽ tạo cho du khách cảm giác thoải mái trong một chuyến du lịch. Ðến
nơi đây, quý khách còn được thưởng thức các món ăn thủy sản của địa phương.
Cinet
Thái Nguyên - Thắng cảnh Hồ Núi Cốc
Thắng cảnh hồ Núi Cốc
19/06/2007, 10h12
|
Vị trí: Hồ Núi Cốc thuộc
huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 15km về hướng
tây nam.
Đặc điểm:
Nơi đây nổi tiếng bởi nét đẹp thiên tạo tự bao năm nay và bởi cả sắc màu huyền
thoại của truyền thuyết nàng Công - chàng Cốc.
Ði
theo tỉnh lộ Ðán - Núi Cốc trải nhựa phẳng phiu, uốn lượn qua những cánh rừng bạt
ngàn, tít tắp là tới khu du lịch Núi Cốc. Hồ nằm giữa một khung cảnh thiên
nhiên kì thú sơn thuỷ hữu tình.
Nơi
đây đã nổi tiếng bởi nét đẹp thiên tạo tự bao năm. Núi Cốc tên gọi một vùng đất,
vùng hồ nên thơ, lung linh sắc màu huyền thoại của câu chuyện tình thuỷ chung
trong truyền thuyết Nàng Công - Chàng Cốc.
Hồ
Núi Cốc là hồ nhân tạo, chắn ngang dòng sông Công, nằm trên địa phận huyện Ðại
Từ, ở trên cao lưng chừng núi. Hồ được khởi công xây dựng năm 1993, hoàn thành
cơ bản năm 1994. Hồ gồm một đập chính dài 480m và 6 đập phụ. Diện tích mặt hồ
khoảng 25km2. Trên mặt hồ rộng mênh mông có tới hơn 89 hòn đảo, có đảo là rừng
cây xanh, có đảo là nơi trú ngụ của đàn cò, có đảo là quê hương của loài dê, có
đảo có đền Bà chúa Thượng Ngàn, lòng hồ sâu trung bình 35m, dung tích nước hồ
khoảng 175 triệu m3. Hồ có khả năng khai thác từ 600 - 800 tấn cá/năm.
Hồ
Núi Cốc là danh thắng và là nơi nghỉ mát đẹp. Hiện nay hệ thống nhà nghỉ và bến
tắm đã được quy hoạch và xây dựng tương đối tốt, phục vụ khách du lịch đến thăm
quan nghỉ ngơi, vui chơi giải trí.
Cinet
Thanh Hoá - Bãi biển Sầm Sơn
Bãi biển Sầm Sơn
19/06/2007, 10h17
|
|
Vị trí: Bãi biển Sầm
Sơn thuộc thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hóa 16km.
Đặc điểm:
Bờ biển dài, bằng phẳng, phong cảnh hùng vĩ, đã được người Pháp khai thác từ
năm 1906.
Bãi
biển Sầm Sơn là nơi tắm biển rất tốt mà người Pháp đã biết khai thác từ năm
1906 và Sầm Sơn nhanh chóng trở thành nơi nghỉ mát nổi tiếng của Ðông Dương. Từ
những thập kỷ trước, đã có nhiều biệt thự nghỉ mát mọc lên ở đây. Vua Bảo Ðại,
ông vua cuối cùng của triều Nguyễn cũng xây biệt thự riêng ở Sầm Sơn. Sầm Sơn
có nhiều cảnh đẹp: hòn Trống Mái, đền Ðộc Cước, núi Cô Tiên...
Bờ biển Sầm Sơn dài 10km bằng phẳng
và nhiều hải sản quý như tôm he, cá thu, mực... Sầm Sơn có cảnh sắc thiên nhiên
hùng vĩ, vùng biển bao la với những thắng tích và huyền thoại mang đậm chất
nhân văn và lòng mến khách. Bãi biển Sầm Sơn là một trong những bãi biển rộng
và đẹp ở phía bắc.
Cinet
Thanh Hoá - Hang Từ Thức
Hang Từ Thức
Từ Thủ Đô Hà Nội, vượt 120 Km theo đường quốc lộ 1A, đến trung tâm
thị xã công nghiệp Bỉm Sơn, rẽ trái theo đường Hà Lan đi về hướng đông 18 Km,
hoặc từ tỉnh lỵ Thanh Hóa đi ra hướng Bắc, đến cây số 25, gặp quốc lộ 13, rẽ
theo hướng Đông Bắc, đến xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, quê hương của quả dưa hấu
với truyền thuyết Mai An Tiêm và cũng là nơi sản sinh ra loại chiếu cói nổi tiếng
"chiếu Nga Sơn", là ta đến động Bích Đào, hay còn gọi là hang Từ Thức
với câu chuyện Từ Thức lên cõi Tiên đầy thi vị.
Động
Bích Đào, dấu tích của chàng Từ Thức du tiên thuở xa, nằm trên hệ thống núi đá
vôi được kéo dài từ Tam Điệp đến cửa Thần Phù (Nga Sơn, Thanh Hóa). Đi vào lòng
động, nhũ đá nhỏ xuống, đụn nhũ nhô lên, tạo nên cảnh trí huyền ảo với nhiều
dáng hình gây trí tưởng tượng kỳ thú: Này đây"đụn gạo","kho tiền",
này kia "bồn muối", vườn cây ăn trái có đủ các loại hoa trái, cây cỏ.
Rồi "mâm xôi", "thủ lợn", rồi "phường bát âm" là
những nhũ đá, vách đá nhô ra, gõ vào tạo nên thứ âm thanh thú vị. Rồi "bàn
cờ tiên", một bàn đá bằng phẳng có đầy đủ các quân cờ, đường kẻ...như thể
chàng Từ Thức cùng các chư tiên tỉ thí
với nhau ở đây vừa đứng dậy đi ngao du đâu đó.Đi sâu vào chút nữa, chếch về
phía trái, ta gặp vũng nước trong vắt, mát rượi, đầy những hòn cuội trắng
xinh. Kế bên là "ao bèo" (bằng đá) với những lớp "bèo" cũng
bằng đá, bồng bềnh điểm những chùm hoa trắng, lục. Rồi những nhũ đá hình rồng
chầu, ếch tọa v.v...
Cuối động cũng có "đường lên trời",
lại có "đường xuống âm phủ". Theo những bậc đá đều nhau ở "đường
lên trời", ta gặp một khoảng không gian in bóng trời xanh đầy thi vị, ấy
là ta đã lên tới đỉnh núi. Tương truyền là nơi Từ Thức cùng các nàng tiên đi
thưởng ngoạn cảnh trời, mà những nhũ đá nhô ra cũng mang dáng của những
"giá áo","giá mũ" của chàng khi chàng dừng chân ở đây. Còn
"đường xuống âm phủ" cũng chính là một cửa hang ăn sâu xuống lòng
núi, với những bậc đá ghập ghềnh, tối tăm, ẩm ướt, hun hút , nhiều ngách, nhiều
lối khiến ai bạo dạn cũng chỉ xuống được vài bước rồi phải choài
lên.
Truyền thuyết Từ Thức
lên tiên và đặc biệt là cảnh trí kỳ thú của động Bích Đào đã từng là nơi hấp dẫn
đối với nhiều tao nhân, mặc khách, nhiều nhân sĩ, hiền nhân: Nguyễn Trung Nhạn,
Lê Quý Đôn, Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng...Ở đây, ngay khi mới bước vào
cửa động, chúng ta đã được chiêm ngưỡng bài thơ chữ Hán của Lê Quý Đôn khắc
trên một phiến đá. Đã mấy trăm năm trôi qua, nét chữ vẫn còn sắc
Động Bích Đào -
hang Từ Thức vừa được Nhà nước công nhận là danh lam thắng cảnh của đất nước,
chắc chắn sẽ càng trở thành một điểm du lịch hấp dẫn, thu hút du khách gần xa
trong thời kỳ đổi mới.
TPHCM - Chợ Bến Thành
Chợ Bến Thành
19/06/2007, 10h23
|
|
Vị trí: Nằm ở trung tâm
thành phố. Chợ Bến Thành ngày nay có hình chữ nhật, trổ bốn cửa ra quảng trường
Quách Thị Trang và các con đường: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Lê Thánh Tôn
thuộc quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Đặc điểm:
Chợ Bến Thành rất đỗi quen thuộc với người dân Việt và du khách quốc tế khi đến
tham quan du lịch thành phố Hồ Chí Minh.
Trước
khi Pháp xâm chiếm Sài Gòn năm 1859, có một chợ nhỏ nằm ở khu đất đồng lầy kề bên
bờ sông Bến Nghé và sát thành Sài Gòn. Từ xuất xứ ấy mà chợ đã mang tên ghép là
Bến Thành. Chợ được xây bằng gạch, khung gỗ, lợp tranh. Năm 1870, chợ bị cháy một
phần. Năm 1911, chợ cũ bị phá đi, chợ mới được xây khang trang rộng rãi hơn và
hoàn thành vào tháng 3/1914.
Sau
năm 1975, chợ Bến Thành lại được đầu tư nâng cấp to đẹp lên rất nhiều so với
trước. Năm 1985, chợ Bến Thành được sửa chữa lại toàn bộ bên trong, bên ngoài,
duy chỉ có dáng vẻ phía trước với tháp đồng hồ được giữ lại như xưa. Hình ảnh chợ
Bến Thành với tháp đồng hồ thường được dùng làm biểu tượng cho thành phố.
Giờ
đây chợ Bến Thành là một trung tâm buôn bán lớn không chỉ của TP Hồ Chí Minh mà
còn của các tỉnh phía
Chợ
Bến Thành được mô tả trong sử cũ như sau: Đó là một "phố chợ nhà cửa trù mật
ở dọc theo bến sông. Chỗ đầu bến này có lệ đến đầu mùa xuân gặp ngày tế mạ, có
thao diễn thủy binh, nơi bến có đò ngang chở khách buôn ngoài biển lên. Đầu phố
phía Bắc là ngòi Sa ngư, có gác cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có dãy phố
ngói, tụ tập trăm thứ hàng hóa, dọc bến sông ghe buôn lớn nhỏ đến đậu nối liền".
Thời ấy, đất Gia Định là một vùng nông nghiệp trù phú nên chợ Bến Thành đầy
hàng hóa, nào gạo, cá khô, tôm khô, cau, đường... bán ra để mua tơ lụa, quả
thô, nhang, quạt, trà, đồ sành sứ, thuốc uống, dược thảo... từ nước ngoài mang
đến. Sở dĩ có tên là chợ Bến Thành là vì chợ gần bến sông và gần thành. Đây
chính là khu vực mà nay dành cho thương cảng Sài Gòn. Sau cuộc nổi dậy của Lê
Văn Khôi (1833-1835) phố chợ Bến Thành không còn sầm uất như trước. Chợ được
xây bằng gạch, sườn gỗ, lợp tranh. Sau khi đánh chiếm Gia Định, thực dân
Pháp đã cho lập một nhà lồng làm chợ ở ngay trên nền đất mà nay là trường Trung
học Ngân Hàng 3. Ngôi chợ này bị cháy năm 1870, nhưng đã được trùng tu với sườn
sắt. Trước nhà lồng chợ có con kênh rộng chạy đến trước cửa tòa nhà nay là trụ
sở của Ủy ban Nhân dân thành phố. Đến năm 1887-1888 thì con kênh này được lấp lại,
làm cho khu vực Võ Di Nguy, Tôn Thất Thiệp trở nên náo nhiệt hơn. Đại lộ Nguyễn
Huệ trước kia là đường kênh lấp. Chợ Bến Thành được chuyển đến vị trí ngày nay.
Nhà lồng chợ được khởi công xây cất trên vùng đất trước đó là một ao sình lầy gọi
là ao Boresse. Thế là chợ Bến Thành xưa trở thành Chợ Cũ, còn chợ Bến Thành mới
được gọi là Chợ Mới Sài Gòn. Ngôi chợ này được khởi công xây cất từ khoảng năm
1911 và khánh thành vào tháng 3 năm 1914. Ngày khánh thành có khoảng 100.000
người tham dự, có cả dân từ các tỉnh đổ về. Cuộc lễ diễn ra trong ba ngày 28,
29 và 30 tháng 3 năm 1914 với pháo bông, xe hoa. Hai con đường bên hông chợ mãi
đến năm 1940 còn là bến xe đò miền Đông và miền Tây. Gần một trăm năm qua, chợ
Bến Thành bao giờ cũng là một trung tâm thương mại, trung tâm phồn hoa náo nhiệt
của thành phố Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ cũ. Dần dần nó trở thành một chợ lớn,
nơi tập trung những mặt hàng quí hiếm của trong nước và nước ngoài.
Sau
ngày giải phóng, năm 1975, chợ Bến Thành được sắp xếp và cải tạo lại một cách gọn
gàng và ngăn nắp hơn. Trong chợ Bến Thành ngày nay chúng ta có thể tìm thấy đủ
loại hàng hóa, từ thực phẩm vật dụng hàng ngày, hàng nhập cảng cũng như hàng nội
hóa, từ những mặt hàng thông thường đến những hàng xa xỉ phẩm.
Năm
1985, Ủy ban Nhân dân thành phố và Quận 1 đã cho chỉnh trang và sửa chữa lớn chợ
Bến Thành. Nhà lồng chợ và các gian hàng, sạp hàng được sữa chữa và làm mới,
duy chỉ có dáng vẻ phía trước với tháp đồng hồ được giữ lại như xưa. Chợ Bến
Thành ngày nay có hơn 3.000 hộ kinh doanh. Chợ Bến Thành ngày nay lại được đầu tư nâng cấp to đẹp
lên rất nhiều so với trước, để nó xứng đáng là một trung tâm buôn bán lớn ở
phía nam đất nước. Hàng hoá chợ Bến Thành rất phong phú, bao gồm hầu hết các sản
vật trong nước – đặc biệt là sản vật ở vùng đồng bằng sông Cửu Long – cùng các
mặt hàng công nghệ hiện đại trên thế giới.
Cinet
TPHCM - Chợ Lớn
Chợ Lớn
Vị trí:
Chợ Lớn là cả một khu vực rất rộng, bao gồm quận 5, quận 10, một phần quận 11
và quận 6.
Đặc điểm:
Khi nhắc đến Chợ Lớn là mọi người nghĩ ngay đến một Chợ Lớn - phố Tàu (
Khi
nghe đến tên Chợ Lớn mọi người sẽ nghĩ tới hình ảnh của các xưởng sản xuất thủ
công nghiệp nhộn nhịp, tới nơi san sát các hàng quán, tiệm ăn mang phong vị
Trung Hoa... Đây là nơi tập trung nhiều người Hoa nhất, họ sinh sống chủ yếu ở
quận 5 - nơi còn bảo tồn nguyên vẹn các giá trị văn hóa, kiến trúc và tôn giáo
của hàng trăm năm trước. Những mái nhà lợp ngói ống ở dãy phố Hoa kiều cùng với
kiến trúc đặc trưng nổi bật lên một nét đẹp rất cổ điển. Khách viếng thăm cảm giác
như đang hiện diện trong khu phố cổ nào đó của người Hoa vào những thế kỷ trước.
Ban
ngày Chợ Lớn ồn ào náo nhiệt người mua kẻ bán tấp nập. Chợ Lớn độc đáo ở chỗ
ngoài việc tham quan, mua sắm, khách du lịch còn được tận mắt chứng kiến một cuộc
sống sôi động của những người Hoa di cư đến từ hàng thập kỷ nay, và cả những
người được sinh ra và lớn lên ngay trên mảnh đất này.
Mỗi
khi nói đi đến Chợ Lớn không có nghĩa là du khách đi chợ mà có thể là vào bất cứ
một tiệm ăn nào. Các tiệm ăn có bảng hiệu ghi hai thứ tiếng và đặc biệt là chủ
nhà vừa có thể đối đáp với thực khách bằng tiếng Việt, vừa tíu tít gọi người
nhà bằng tiếng Hoa. Ở đây du khách còn bắt gặp khuôn mẫu của những ông chủ quán
ăn Tàu - đó là một người đàn ông bụng to, khuôn mặt hớn hở với chiếc khăn mặt vắt
vai.
Từ
những năm xa xưa người dân miền
Cinet
TPHCM - Công viên nước Đầm Sen
Công viên nước Đầm Sen
19/06/2007, 10h28
|
|
Vị trí: 03 Hòa
Bình, Phường 3, Q. 11, Tp. HCM
Đặc điểm:
Công viên nước Ðầm Sen được trang bị hệ thống các thiết bị trị chơi dưới nước rất
hiện đại, được đặt hài hòa trong một vườn cảnh Phương Ðông xanh mát rộng 3
hecta ngay trong lòng thành phố là một địa điểm vui chơi lý tưởng dành cho bạn
và gia đình.
Nằm
trong quần thể dịch vụ vui chơi giải trí Đầm Sen, Công viên Nước Đầm Sen với 25
lọai thiết bị trò chơi dưới nước độc đáo và một hồ tạo sóng rộng 3000m2 nằm dưới
rừng cây xanh mát là một địa chỉ vui chơi giải trí lý tưởng dành cho bạn và gia
đình sau những ngày làm việc, học tập căng thẳng.
Đến
với công viên nước Đầm Sen các bạn sẽ cảm nhận ngay về một ốc đảo xanh mát giữa
lòng thành phố. Hãy hít thật sâu để tận hưởng cái không khí trong lành của một
thiên nhiên thơ mộng rồi đắm mình vào sóng biển nhấp nhô như vỗ về nâng niu bạn.
Các bạn trẻ thích chinh phục độ cao ư ? Các bạn sẽ được thử thách cùng các trò
chơi cảm giác mạnh như : máng trượt cao tốc Kamikaze cao 19m, hay bạn sẽ trở
thành Tazan trong phim trường của trò chơi Đu Dây Vượt Thác, còn các bạn thích
trò chơi cảm giác nhẹ nhàng êm ái hơn có thể thả mình dưới Dòng Sông Lười trôi
bồng bềnh quanh dòng sông dài 400m hay thật sự thư giãn với hồ Massage giữa
thiên nhiên xanh mát. Và còn nhiều trò chơi hấp dẫn khác đang chờ các bạn khám
phá chinh phục nữa đấy.
Để
đem đến cho du khách nhiều cảm giác mới lạ trong các năm qua công viên luôn đầu
tư, nâng cấp nhiều trò chơi mới như: máng trượt siêu tốc Tornado cao 20m, dài
119m; máng trượt phao ba Blackthunder với các hiệu ứng âm thanh ánh sáng đặc sắc,
máng trượt thảm Multi Slide với 4 đường trượt để bạn và gia đình có thể thi thố
tài năng xem ai là người trượt nhanh nhất; máng trượt Love Storm cao 12m với 3
vòng xoắn độc đáo. Đặc biệt, trong dịp hè 2006 này dự kiến công viên sẽ khai
trương một trò chơi hoàn toàn mới lạ lần đầu tiên xuất hiện máng trượt Space
Bowl chắc chắn sẽ đem đến cho du khách nhiều cảm giác đặc biệt thú vị.Khi đến với công viên các bạn sẽ
thật sự an tâm khi tham gia các trò chơi của công viên vì luôn có một đội ngũ cứu
hộ chuyên nghiệp luôn sẵn sàng hỗ trợ và chăm sóc bạn. Ngòai ra, công viên còn
có một hệ thống các quầy thức ăn nhanh và một nhà hàng 500 chỗ cùng các thực
đơn phong phú, được chế biến hấp dẫn luôn sẵn sàng phục vụ quý khách.
Cinet
TPHCM - Phố cổ Trung Hoa
Phố cổ Trung hoa ở Sài
gòn
|
Trong quá trình khẩn hoang, mở
mang vùng đất Nam Bộ, ngoài vai trò chủ yếu của người Việt, còn có sự tham gia
của cộng đồng người Hoa nhập cư với nhiều công lao sáng tạo nên và để lại những
di sản văn hóa quí báu.
Hình thái cư trú phổ biến,
mang tính cộng đồng cao của người Hoa di dân là sinh sống theo từng dãy phố,
khu phố mang tính đặc trưng văn hóa tộc người khá rõ. Chính vì thế mà các "
Tại TP. HCM, chỉ tính riêng ở
quận 5, trên các con đường lớn
Có lẽ chính vì thế, kiến trúc
sư trưởng Lê Văn Năm đã phát biểu: "Chúng ta phải nhanh chóng bảo tồn và
phát triển phù hợp với nhịp phát triển đô thị. Hiện nay tốc độ phát triển đô thị
nhanh hàng ngàn lần, nếu ta chậm chân, nhiều công trình di sản cũ sẽ bị phá hết...".
Cùng với ý này, kiến trúc sư Lê Quang Ninh - chủ nhiệm chương trình Bảo tồn cảnh
quan kiến trúc đô thị - đã nhấn mạnh trong Hội nghị khoa học về xây dựng TP.
HCM năm 2000: "Dự án bảo tốn khả thi càng chậm hoàn tất, chậm triển khai
thì cảnh quan kiến trúc đáng bảo vệ càng bị xâm phạm...". Chia sẻ với những
lời cảnh báo, ta thử đến xem một khu phố cổ vốn trước đây của người Hoa, nơi chủ
yếu kinh doanh đông dược tọa lạc ở ngã tư đường Hải Thượng Lãn Ông và Triệu
Quang Phục, thuộc phường 10 - quận 5.
Khối nhà gồm những căn một trệt
hai lầu này khá đồ sộ, được xây dựng cách nay khoảng 100 năm theo phong cách kiến
trúc khá độc đáo, đặc trưng của người Hoa đầu thế kỷ XX: đó là sự pha trộn giữa
trường phái kiến trúc Pháp và Hoa, mà có nhà nghiên cứu cho rằng nó được mô phỏng
chủ yếu từ kiểu nhà người Hoa ở thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
(Một trong những nét đặc trưng của nó là các "mặt dựng" ở đầu diềm
mái nhà, nơi được trang trí nhiều dạng môtip khác nhau. Riêng "mặt dựng"
nơi đầu mái của khối nhà cổ này có hình con long mã đội hà đồ - biểu tượng cho
điềm lành, thái bình an lạc).
Hiện nay, hằng ngày có khá
nhiều khách du lịch nước ngoài đến tham quan khu phố cổ này và chụp ảnh, thậm
chí họ còn xin phép được bước vào các căn hộ vì muốn xem cách trình bày nội thất
của gia đình người Hoa ở Việt Nam. Điều may mắn, thuận lợi là toàn bộ khu phố cổ
này đều thuộc diện Nhà nước quản lý. Chính nhờ vậy mà cho tới nay khối nhà này
tương đối còn giữ được tổng thể nguyên dạng của nó. Trong tổng số 15 căn nhà ở
đây (với 33 hộ và 143 nhân khẩu), chỉ có một căn thuộc quyền sở hữu tư nhân
(được hóa giá từ 1992). Khu phố cổ này không chỉ có giá trị về mặt kiến trúc,
mà còn là một trong những khu di tích cổ thể hiện yếu tố văn hóa tộc người của
người Hoa ở TP.HCM; và trong chừng mực nó gắn với lịch sử hình thành và phát
triển của TP. HCM.
Khu phố cổ này nếu được sự hợp
tác đầu tư, sửa chữa nâng cấp để phục hồi vẻ đẹp nguyên trạng của nó (ít ra là
ở bên ngoài); chọn một số căn hộ nơi đây để tái tạo không gian nội thất với
cách bài trí truyền thống của nhà người Hoa; đồng thời tổ chức tốt các điểm dịch
vụ, thương xá, điểm du lịch... thì hiệu quả kinh tế và các mặt khác của nó đem
lại chắc chắn sẽ không nhỏ.
TPHCM - Vườn Thiên Thai
Vườn Thiên Thai
|
|
|
Nằm gần trung tâm thành phố,
trong một khuôn viên rộng 6.000m2, Vườn Thiên Thai vừa mở cửa hơn nửa năm nay
thực sự đã tạo thêm cho thành phố Hồ Chí Minh một điểm vui chơi, giải trí và du
lịch lý tưởng.
Vườn
Thiên Thai là một mô hình mới, điểm nổi bật là sự kết hợp chặt chẽ hài hòa giữa
nội dung và hình thức vừa mang đậm tính dân tộc vừa hiện đại - Đó là sự kết hợp giữa
cảnh quan thiên nhiên và những công trình kiến trúc tạo ra sự sinh động hấp dẫn.
Bước vào Vườn Thiên Thai,
trong khoảnh khắc bạn
sẽ quên được những cảnh đua chen và tất bật bên ngoài - Bạn sẽ thích thú trên
sân quần vợt tiêu chuẩn quốc tế, trẻ trung trong phòng Karaoke mát lạnh, sảng
khoái bơi lượn trong hồ nước trong ngần từ thác đổ xuống. Bạn sẽ thanh thản
bên bờ suối với chiếc cần câu. Nếu cần nghỉ ngơi? Bạn sẽ có căn nhà sàn với vò rượu cần
|
Để cảm nhận được trọn vẹn
tình thân ái giữa gia đình, bạn bè, khách quí và thưởng thức những món ăn Âu -
Á, những món đặc sản ba miền Nam - Trung - Bắc Việt Nam, bạn đã có nhà hàng
Thiên Thai sẵn sàng phục vụ từ những tiệc nhỏ ấm cúng năm ba người đến những
đại tiệc liên hoan, sinh nhật, đám cưới cả ngàn người.
Vườn Thiên Thai
- một khu vườn mới lạ - Nơi thư giãn tinh thần và nơi bạn sẽ khám phá ra nhiều
điều thú vị.
Tuyên Quang - Thác Mơ
Thác Mơ
19/06/2007, 10h32
|
|
Vị trí: Thác mơ thuộc
thị trấn Nà Hang, huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang, nằm giữa khu bảo tồn thiên
nhiên Nà Hang, cách thị xã Tuyên Quang khoảng 100km.
Đặc điểm:
Thác nước hùng vĩ phối hợp với khung cảnh núi rừng trùng điệp đang chờ đón những
du khách ưa phiêu lưu, mạo hiểm.
Đường
vào thác Mơ tương đối thuận tiện. Từ xa đã nghe thấy tiếng nước đổ ào ào. Càng
đến gần thác, khí hậu càng lạnh. Tới thác, du khách dường như đang bước vào chốn
bồng lai tiên cảnh. Thác ẩn dưới chân ngọn núi mà dưới đó là một hồ nước trong
veo. Du khách sẽ lên một con xuồng nhỏ để tới thác. Ngồi trên xuồng, du khách
được dịp thư giãn, thoả sức ngắm nhìn bức tranh thiên nhiên "núi ôm mây,
mây ấp núi".
Một
khối nước bạc khổng lồ sẽ hiện ra trước mắt du khách. Thác gồm có 3 tầng, muốn
lên tầng thác thứ 2, du khách phải leo khoảng hơn 10m thang dây. Tại chân tầng
thác thứ 2 có một hồ nước nhỏ, trong vắt. Lên tầng này, du khách được đắm mình
trong khung cảnh kỳ vĩ với những hang động nhũ đá lung linh huyền ảo. Tại tầng
thác này nước chảy êm ả hơn, luồn qua những kẽ đá, trên những khối đá to rêu phủ
xanh rì trông như những tấm thảm nhung. Bám tiếp thang dây, du khách sẽ tới đỉnh
tầng thứ 3 của thác.
Nước
từ trên cao đổ xuống ào ào như một màng nước khổng lồ. Hơi nước toát ra lành lạnh
đã xua tan mệt mỏi, tạo cho du khách niềm cảm hứng mới khi đứng trên đỉnh ngọn
thác hùng vĩ này để chiêm ngưỡng toàn cảnh thị trấn Nà Hang với 99 ngọn núi
trùng điệp bao quanh. Nếu thích, xin mời du khách tiếp tục tản bộ vào khu rừng
nguyên sinh để khám phá những điều kỳ diệu ở nơi đây. Tiếng thác nước ào ào, tiếng
chim kêu vượn hú, ánh nắng bàng bạc xụyên qua tán lá rừng rậm rạp khiến cho du
khách như được sống lại thời tiền sử.Thác
Mơ, một điểm du lịch sinh thái lý tưởng của Tuyên Quang đang chờ đón du khách
ưa phiêu lưu, mạo hiểm.
Cinet
Vĩnh Phúc - Khu du lịch Tam Đảo
Khu du lịch Tam Đảo
19/06/2007, 10h39
|
|
Vị trí: Khu du lịch Tam
Đảo thuộc thị trấn Tam Đảo, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, cách Hà Nội 86km.
Đặc điểm:
Khí hậu ở đây rất độc đáo, bốn mùa trong ngày; khung cảnh thơ mộng, hùng vĩ.
Mùa du lịch đẹp nhất trong năm ở Tam Đảo là vào mùa hè.
Thiên
nhiên và dấu vết thời gian đã ban tặng cho Tam Ðảo một khung cảnh tuyệt vời: vừa
thơ mộng, u tịch, vừa hùng vĩ, huyền ảo trong cảnh mây gió, sương khói vờn trên
đỉnh núi rồi sà xuống những thảm cỏ, những ngôi nhà ven sườn núi. Hè về, Tam Ðảo
vào mùa du lịch đẹp nhất trong năm.
Tam
Ðảo là một dãy núi dài khoảng 80km theo hướng tây bắc - đông nam, rộng từ 10 -
15km, là khu nghỉ mát ở núi lý tưởng của miền Bắc. Tam Đảo có diện tích 253ha nằm
trên độ cao 900m so với mặt biển. Từ thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc sau 1 giờ
xe chạy là lên tới Tam Ðảo. Thêm 20km đường dốc, lượn qua các sườn núi thông mọc
thẳng tắp nhìn lên cao vút, mờ mờ ẩn hiện Tam Ðảo trong sương.
Núi
Tam Đảo có 3 đỉnh nổi lên như 3 hòn đảo: đỉnh giữa có tên Bàn Thạch cao 1.388m;
bên trái là đỉnh Thiên Nhị (chợ trời) cao 1.375m, trên có tháp truyền hình cao
93m, bên phải là đỉnh Phù Nghĩa cao 1.400m.
Thị
trấn Tam Ðảo rộng hơn 300ha, nằm gọn trong một thung lũng nhỏ của dãy Tam Ðảo,
đồng thời cũng là một trong những vườn quốc gia lớn nhất miền Bắc. Khí hậu ở
đây rất độc đáo, bốn mùa trong một ngày. Buổi sáng se se gió xuân, buổi trưa
nóng ấm mùa hạ, buổi chiều lãng đãng heo may mùa thu, buổi tối lạnh giá của
đông. Thị trấn bé xíu, xinh xắn với những con đường lên xuống ngoằn ngoèo,
quanh co nho nhỏ, một dòng suối như vệt nước cắt ngang chảy suốt bốn mùa.
Ðầu
thế kỷ 20, người Pháp đã "tấn công" lên Tam Ðảo, xây dựng ở nơi đây
thành khu nghỉ mát với 200 biệt thự, khách sạn, nhà hàng, sân chơi thể thao, bể
bơi, sàn nhảy.
Ðường
đi lên núi Tam Đảo tuy hơi vất vả nhưng rất đẹp. Hoa phong lan, hoa cúc quì và
các loài hoa dại không tên khác nở đầy lối đi, toả hương thơm rất lạ, màu sắc rực
rỡ... cộng thêm không biết bao nhiêu là bướm đủ loại rập rờn trên hoa lá, đậu
trên tóc người, bay theo người hàng đàn như các sứ giả Tam Ðảo đón khách lên
chơi. Lên tới đỉnh, phóng tầm mắt ra bốn phía là mênh mông trời, đất, gió,
mây...
Từ
trung tâm thị trấn, rẽ bên phải theo một con đường mòn, hút xuống thung lũng
sâu, thác Bạc giấu mình trong núi, bí ẩn đổ xuống dòng nước trắng bạc, lóng
lánh ánh mặt trời phản chiếu sắc cầu vồng. Một dòng suối nhỏ từ trên cao 30m ào
ào tuôn nước, thả vào gió tiếng suối, tiếng rừng, tiếng lá dội vào vách đá nghe
thâm u như tiếng ngàn xưa... Nếu thích mạo hiểm, hãy đi xa chút nữa tới đỉnh
Rùng Rình, ở đây cây cối, núi non đẹp như trong cổ tích, có nhiều cây to mấy
người ôm phủ đầy hoa phong lan, tiếng chim hót ríu rít vang động, bươm bướm bay
rợp trời. Xa hơn nữa là Tam Ðảo 2, nơi mà vào thời Pháp cũng là điểm du lịch nghỉ
mát lý tưởng, nhưng nay bị bỏ hoang mang vẻ đẹp hoang dã, cô liêu.
Cinet
Vũng Tàu - Độc đáo Long Sơn
Độc đáo Long Sơn
|
Với diện tích nhỏ nhưng Long Sơn cũng đã có đầy đủ
núi, rừng, sông, biển, là xã đảo duy nhất của TP Vũng Tàu, sẽ được chọn là một
trong những điểm tổ chức Festival biển Bà Rịa - Vũng Tàu 2005.
Huyền
thoại người đi mở đất
Không
chỉ đẹp, Long Sơn còn huyền bí với những cư dân mặc bà ba đen, tóc búi củ hành
và truyền thuyết mở mang bờ cõi bất khuất của cha ông...
Long
Sơn không xa thành thị (cách Thị xã Bà Rịa 9km) nhưng thật bất ngờ khi gặp những
người dân địa phương còn nguyên nét xưa tựa cả trăm năm về trước: bà ba đen,
tóc búi củ hành. Bác Ba Thành - một lão nông chân chất đúng điệu dân Long Sơn -
cho biết: “2/3 dân trên đảo theo đạo ông Trần (dân số của đảo khoảng 13.000 người)”.
Người
dân đảo không ai không tự hào về truyền thuyết ông Trần - người mở đất lập nên
Long Sơn. Tục truyền ông tên Lê Văn Mưu, người làng Thiên Khánh, tổng Hà Thanh,
quận Giang Thành, nay là xã Tân Khánh Hòa, thị trấn Hà Tiên, Kiên Giang nhưng
dân đảo thích gọi ông bằng tên theo kiểu miền Nam hơn: ông Trần (vì ông hay ở
trần khi phát quang ruộng rẫy) hay ông Nhà Lớn. Khoảng năm 1900, ông cùng đoàn
người trên năm chiếc thuyền lớn đã cập bến cù lao Núi Nứa (đảo Long Sơn ngày
nay) trên hành trình trốn chạy sự truy nã của giặc Pháp vì tội tham gia lực lượng
khởi nghĩa.
Đảo
khi ấy rất hoang vắng, bốn bề là rừng ngập mặn bao quanh. Phát quang tạo ruộng
lập ấp, khai thác gỗ trên núi, đánh bắt thủy hải sản..., ông cùng đoàn người bắt
tay xây dựng Nhà Lớn từ năm 1910-1929 thì hoàn tất. Đến nay, dân đảo còn nhắc đến
sự kiện “năm Thìn bão lụt miền Tây” ông đã mở kho gạo cứu đói cho dân. Sau sự
kiện đó, có rất nhiều người miền Tây theo ông về Long Sơn lập nghiệp (điều này
lý giải việc phần lớn dân trên đảo có gốc miền Tây).
Những
kinh nghiệm sống mà ông Trần mang lại cho dân chúng đã được gìn giữ và lan truyền
như những điều “kinh đạo”. Các bậc kỳ lão nói: “Đó chỉ là đạo làm người. Ngày
xưa ông Nhà Lớn thường dạy về nhân - lễ - nghĩa - trí - tín, trung hiếu... Dân
cứ thế truyền miệng từ cha mẹ sang con cái, ông bà sang cháu chắt”.
Đạo
ông Trần độc đáo ở chỗ không có giảng đạo, không kinh kệ, không thu nhận tín đồ.
Người dân cho biết nhiều tập tục riêng của Long Sơn vẫn truyền đời như đám tang
chôn cất trong vòng 24 giờ (không coi ngày giờ, xả tang ngay tại mộ), đám cưới
không coi ngày mà chỉ chọn hai ngày trong tháng là 16 hoặc mồng 1 và giờ hành lễ
là giờ Thìn (khoảng 8g sáng)…
Đặc
biệt, tục “chết đồng quách” vẫn được dân đảo thực thi đến ngày nay. Theo triết
lý của ông Trần, “khi chết mọi người đều bình đẳng như nhau” nên áo quan (đặt tại
Sơn Long Hội - Nhà Lớn) được dùng chung cho tất cả mọi người. Gia đình có tang
chỉ việc đến thỉnh áo quan về tẩm liệm, khi ra mộ phần thì người chết được quấn
vào chiếu cói chôn xuống đất.
Hiện
nay, ngay phía sau khu chính điện - nơi ông Trần thường ngồi giảng đạo cho các
phiên viên và con cháu nghe - vẫn còn lưu giữ bộ ảnh (chữ Nôm) truyện Lục Vân Tiên.
Theo con cháu ông Trần, đây là nét chủ đạo của đạo ông Trần.
Nhà
Lớn được gìn giữ như con ngươi
|
Ảnh minh hoạ. |
Nhà
của ông Trần (nay là di tích Nhà Lớn, còn gọi là Đền ông Trần) nằm ngay trung
tâm xã, rộng hơn 2ha do ông Trần tự thiết kế và xây dựng. Đến nay, Nhà Lớn vẫn
đứng vững trong hạng đầu những quần thể kiến trúc cổ đồ sộ, bề thế nhất khu vực
(nên dân gọi là ông Nhà Lớn).
Toàn
bộ Nhà Lớn (làm hoàn toàn bằng gỗ, nứa - được gìn giữ gần như nguyên vẹn), tại
đây được chia làm ba khu vực với nhiều nhà, lầu san sát nhau ăn thông bằng những
con đường nhỏ gồm: nhà khách, lầu cấm, nhà thánh, lầu giữa, lầu dài, lầu tiên,
lầu Phật, nhà hậu, nhà hội, trường học, chợ, mộ, các dãy phố, nhà ghe sấm (còn
lưu giữ một trong năm chiếc ghe đầu tiên về Long Sơn lập nghiệp), nhà mát (trạm,
dành cho ghe thuyền bà con tránh mưa nắng), khu nhà ở, công viên...
Bên
trong di tích là vô số kỷ vật cổ (phần bằng gỗ quí). Theo đánh giá của nhiều
đoàn khảo cổ đến đây tham quan nghiên cứu, ông Nhà Lớn sưu tầm khá nhiều vật dụng
của cả ba miền Nam - Trung - Bắc như bàn ghế, tủ thờ, những bức hoành phi, liễn
thờ... Trong đó có bộ bàn ghế bát tiên mà con cháu ông Nhà Lớn khẳng định là của
vua Thành Thái. Nhà Lớn được xem là di sản của nhân dân cả đảo. Dân gìn giữ Nhà
Lớn như gìn giữ con ngươi trong mắt mình.
Việc
quản lý di sản đều do nhân dân cùng con cháu ông Trần điều hành hoàn toàn tự
nguyện. Cung kỉnh (cúng, lễ), quét dọn, tu sửa hàng ngày do năm người đảm nhiệm,
cứ ba ngày thay phiên một lần. Nhà Lớn hiện có 68 phiên với 340 người tự nguyện
thực hiện, nửa năm đổi lại một lần.
Anh
Bôn, người trực tại lầu Phật cho biết: “Trực phiên chỉ là hình thức, chủ yếu là
xuất gia tu tâm dưỡng tính trong ba ngày ở Nhà Lớn”. Nguồn tài chính của Nhà Lớn
(do khách tham quan hay nhân dân cúng) được đưa vào quĩ xã hội chăm lo học sinh
và người dân nghèo toàn xã: cây mùa xuân cho trẻ em, áo mới cho thầy cô giáo, y
bác sĩ của xã... Tổng kết năm 2004, Nhà Lớn chăm lo tổng số tiền trên 85 triệu
đồng.
Điều
kỳ lạ nhất là trải qua hai cuộc chiến nhưng Long Sơn - nhất là Nhà Lớn, hầu như
không bị ảnh hưởng gì nhiều dù đây là căn cứ của cách mạng, bị Pháp chiếm đóng,
lập cứ. Lịch sử của Nhà Lớn đã gắn cùng những giai thoại ly kỳ.
Ban
điều hành Nhà Lớn cho biết: “Vào thời Pháp, lính Pháp cũng định san bằng Nhà Lớn
và di dân khỏi đảo. Pháp đã bỏ bom ngay Lầu Cấm - nơi thờ Phật năm ông - nhưng
bom không nổ”. Sau đó, lính đặt mìn ở nhà hội và nhà hậu. Mìn cũng trơ ra như củ
khoai. Nhà Lớn khi đó là tòa nhà lớn nhất, sang trọng nhất Long Sơn nên bị lính
chiếm đóng đầu tiên. Nhưng việc nhiều tên bị té lầu gãy cổ chết không rõ nguyên
nhân đã làm bọn lính ngán sợ phải rút đi nơi khác...
Năm
1991, quần thể kiến trúc Nhà Lớn được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn
hóa cấp quốc gia và đến nay vẫn còn là khám phá thú vị với nhiều nhà nghiên cứu
lịch sử, khảo cổ.
Long
Sơn hiện nay nhà cửa khang trang, đường sá được mở rộng, tráng nhựa thẳng tắp,
điện, nước máy vào tới từng hộ, đời sống sung túc nhiều hơn trước. Thay vì sống
bằng nghề trồng lúa mỗi năm một vụ, dân Long Sơn nay chuyển sang đánh bắt, nuôi
trồng thủy hải sản, đất chuyển sang diêm nghiệp sản xuất quanh năm. Xã cũng
đang đẩy mạnh trồng rừng, qui hoạch xây dựng trung tâm văn hóa, khu nhà nghỉ
khách sạn để phục vụ du lịch.
(Cinet)
Yên Bái - Hồ Thác Bà
Hồ Thác Bà
19/06/2007, 10h43
|
|
Vị trí: Hồ thuộc 2 huyện
Lục Yên và Yên Bình.
Đặc điểm: Đây
là một trong ba hồ nước nhân tạo rộng nhất Việt
Hồ
Thác Bà là hồ nước nhân tạo có diện tích là 23.400ha, trong hồ có
1.331 đảo với thảm thực vật và cảnh quan sinh thái đa dạng. Nước hồ trong
xanh, in bóng những vạt rừng già bao quanh hồ. Hàng ngàn đồi đảo trên hồ với
các hang động như hang Hùm, hang Cẩu Cuôi, động Bạch Xà... và đền Thác Bà luôn
tạo nên sự cuốn hút đối với du khách. Có dãy núi Cao Biền soi bóng ven hồ.
Hồ
Thác Bà còn là một di tích lịch sử. Tại đây vào năm 1285 đã diễn ra trận Thu Vật
do Trần Nhật Duật chỉ huy đánh tan một đạo quân Nguyên Mông. Ở vùng thượng
hồ còn có một số nơi là cơ sở hoạt động của các cơ quan trung ương thời kỳ
kháng chiến chống Pháp. Giữa hồ Thác Bà có động Mông Sơn là nơi Tỉnh ủy Yên Bái
làm việc trong cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.Hồ Thác Bà là một thắng cảnh đẹp,
nơi đang có kế hoạch phát triển thành một trung tâm du lịch sinh thái, kết hợp
giữa giải trí trên hồ và leo núi, thám hiểm rừng.
Cinet